Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỸ TÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 11 năm 2020 tại phòng xử án Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 250/2020/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 10 năm 2020 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 11 năm 2020, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Quan Thị Quý P; Cư trú: Ấp 1, thị trấn Long P, huyện Long P, tỉnh Sóc T.

Chỗ ở hiện nay: Ấp N, xã Châu K, huyện Long P, tỉnh Sóc T (có mặt).

- Bị đơn: Anh Dương Văn P; Cư trú: Ấp Phước T, xã Mỹ P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 22 tháng 9 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Quan Thị Quý P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ngày 24 tháng 5 năm 2017 chị P và anh P đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Long P, huyện Long P, tỉnh Sóc T. Sau đó vợ chồng tổ chức đám cưới, chung sống hạnh phúc. Tuy nhiên đến tháng 01 năm 2020 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm không còn hợp nhau. Hơn nữa, anh P không còn yêu thương chị P và không có trách nhiệm với các con, từ đó vợ chồng không còn hạnh phúc, chị P không thể duy trì đời sống hôn nhân với anh P được. Đến tháng 02 năm 2020 vợ chồng sống ly thân.

Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị P và anh P có hai con chung tên Dương Quan N, sinh ngày 28/10/2017 và Dương Quan Ý N, sinh ngày 17/12/2019, các con hiện nay đang sống chung với chị P.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có.

Chị P yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị P yêu cầu ly hôn với anh Dương Văn P:

- Về con chung: Chị P yêu cầu tiếp tục nuôi con chung Dương Quan N, sinh ngày 28/10/2017 và Dương Quan Ý N, sinh ngày 17/12/2019; Chị P yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi 02 con N và Ý N, mỗi tháng 3.000.000 đồng/tháng/02 cháu:

- Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn: Chị P và anh P còn khả năng lao động nuôi sống bản thân, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa sơ thẩm chị P thay đổi một phần nội dung yêu cầu khởi kiện, chị P không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Tại lời khai ngày 09 tháng 11 năm 2020 và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị đơn anh Dương Văn P trình bày:

Về quan hệ hôn nhân, về con chung, tài sản chung và nợ chung anh P thống nhất với lời trình bày của chị P.

Về quan hệ hôn nhân anh Dương Văn P đồng ý ly hôn với chị Quan Thị Quý P; Về con chung anh P không đồng ý giao con chung tên Dương Quan N, sinh ngày 28/10/2017 cho chị Phi nuôi dưỡng, anh P yêu cầu được nuôi con chung tên Dương Quan N và không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con. Anh P đồng ý giao con chung tên Dương Quan Ý N, sinh ngày 17/12/2019 cho chị P nuôi dưỡng và anh P đồng ý cấp dưỡng nuôi cháu Ý N mỗi tháng 1.500.000 đồng. Nếu như Hội đồng xét xử quyết định giao 02 con chung cho chị P nuôi dưỡng thì anh P không cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa:

- Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Đối với nguyên đơn, bị đơn tại phiên tòa hôm nay đã thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của pháp luật.

- Về nội dung giải quyết vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Quan Thị Quý P.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Tranh chấp giữa các đương sự là ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn cư trú ấp Phước T, xã Mỹ P, huyện Mỹ T, tỉnh Sóc T, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

[2] Tại phiên tòa nguyên đơn xin thay đổi một phần yêu cầu khởi kiện, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện. Căn cứ khoản 1 Điều 244 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử chấp nhận sự thay đổi này của nguyên đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét thấy, chị Quan Thị Quý P và anh Dương Văn P, kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không ai ép buộc và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Long P, huyện Long P, tỉnh Sóc T và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 70 ngày 24/5/2017. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa anh chị là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình thì chị P có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh P.

[4] Xét lý do xin ly hôn của chị P, Hội đồng xét xử thấy rằng: Sau khi kết hôn chị P và anh P chung sống với nhau có 02 con chung. Tuy nhiên, chị P và anh P bắt đầu phát sinh mâu thuẫn từ tháng 01/2020, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, tính tình không hợp, làm cho cuộc sống vợ chồng không còn hạnh phúc, hiện nay mỗi người sống một nơi, không quan tâm, chăm sóc cho nhau, anh chị không còn sống chung với nhau từ tháng 02/2020 cho đến nay. Tòa án đã triệu tập chị P và anh P để hòa giải cho vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị P và anh P không đồng ý hàn gắn tình cảm vợ chồng, chị P thì cương quyết xin ly hôn còn anh P cũng đồng ý ly hôn. Như vậy, tình trạng hôn nhân của chị P và anh P cũng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị P.

[5] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân chị P và anh Phó có 02 con chung tên Dương Quan N, sinh ngày 28/10/2017 và Dương Quan Ý N, sinh ngày 17/12/2019, các con đang sống chung với chị P. Xét thấy, tính đến thời điểm xét xử sơ thẩm thì cháu Ý N còn quá nhỏ dưới 36 tháng tuổi, từ khi anh chị không còn sống chung với nhau 02 cháu do chị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, về mặt tình cảm thì 02 cháu gắn bó và yêu mến chị P nhiều hơn anh P, hơn nữa 02 cháu là giới nữ nên cần sự chăm sóc, nuôi dưỡng của người mẹ, điều kiện chăm sóc của chị P thuận lợi hơn anh P, hiện nay cuộc sống của chị P và 02 cháu đã ổn định về mặt vật chất cũng như tinh thần. Anh P không đồng ý giao con chung Dương Quan N cho chị P nuôi dưỡng, hiện nay anh P là tài xế xe cẩu, thường xuyên vắng nhà, khoảng 2 - 3 tháng mới về thăm nhà một lần, không có người chăm sóc con. Tại phiên tòa anh P chưa đưa ra được biện pháp chăm sóc, nuôi dạy con, anh P cũng không chứng minh được chị P không có khả năng nuôi dạy con, cho nên Hội đồng xét xử chưa có căn cứ giao cháu N cho anh P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Nếu anh P có chứng cứ để chứng minh chị P không có khả năng nuôi con, thì anh P có quyền khởi kiện yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con thành một vụ kiện khác. Căn cứ khoản 2 và 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Hội đồng xét xử quyết định giao con chung tên Dương Quan N, sinh ngày 28/10/2017 và Dương Quan Ý N, sinh ngày 17/12/2019 cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành.

[6] Về nghĩa vụ, quyền của cha mẹ không trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Căn cứ khoản 3 Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh P là người không trực tiếp nuôi con, nên anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, mà không ai được cản trở.

[7] Về cấp dưỡng nuôi con: Chị P có khả năng nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[8] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

[9] Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chị P là người có đơn xin ly hôn, chị P phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; khoản 1 Điều 244; khoản 1 Điều 273 và khoản 1 Điều 280 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 56; khoản 2, 3 Điều 81; khoản 3 Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Quan Thị Quý P và anh Dương Văn P.

2. Về con chung: Tiếp tục giao con chung tên Dương Quan N, sinh ngày 28/10/2017 và Dương Quan Ý N, sinh ngày 17/12/2019 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng đến khi con tròn 18 tuổi. Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Anh P có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu nên không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Quan Thị Quý P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0006160 ngày 12 tháng 10 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Như vậy, chị P đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

6. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự được sửa đổi, bổ sung năm 2014.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

191
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 27/11/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mỹ Tú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;