Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN G, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 54/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện G, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 207/2020/TLST- HNGĐ, ngày 30/6/2020 về việc “Tranh chấp về ly hôn và yêu cầu nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2020/QĐXXST-HNGĐ, ngày 21 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1993 (có mặt);

Đa chỉ: ấp B, xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang.

Bị đơn: Anh Trần Minh T, sinh năm 1985 (vắng mặt).

Đa chỉ: ấp 3, xã V, huyện G, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai đề ngày 30/6/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H trình bày:

Vào năm 2013, chị kết hôn cùng với anh Trần Minh T, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức lễ cưới theo phong tục địa phương và vợ chồng có đăng ký kết hôn trễ hạn tại UBND xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang vào ngày 04/8/2016.

Sau khi cưới, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2017 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng trong quan điểm sống, không có tiếng nói chung nên thường xuyên cự cãi, anh T còn đánh chị làm cho cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Nay, chị nhận thấy vợ chồng không thể hàn gắn với nhau được nữa nên yêu cầu được ly hôn.

Quá trình chung sống, vợ chồng chị có 02 con chung tên Trần Nguyễn Hoàng Vĩnh Th – sinh ngày 12/6/2014 và Trần Nguyễn Hoàng Thụy N – sinh ngày 22/10/2015, hiện nay, hai con đang sống cùng với chị.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị H xác định không có.

Tại phiên tòa: Về hôn nhân, chị Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu được ly hôn với anh Trần Minh T; Về con chung, chị yêu cầu được nuôi hết 02 con, không yêu cầu cấp dưỡng; Về tài sản chung, nợ chung, không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với bị đơn anh Trần Minh T không có mặt tại phiên tòa: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo đúng quy định của pháp luật nhưng anh T không có mặt cũng không cung cấp bản tự khai cho Tòa án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến hay bất cứ yêu cầu nào của anh.

Đi diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về ly hôn và yêu cầu nuôi con chung” là đúng quy định và thuộc thẩm quyền giải quyết. Từ khi thụ lý đến khi xét xử, Thẩm phán đã thực hiện các bước tiến hành tố tụng đúng theo quy định, tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm, những người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình. Riêng đối với bị đơn không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị áp dụng các Điều 56, Điều 81, Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với anh Trần Minh T; Về con chung: Giao con chung tên Trần Nguyễn Hoàng Vĩnh Th – sinh ngày 12/6/2014 và Trần Nguyễn Hoàng Thụy N – sinh ngày 22/10/2015 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; Ghi nhận việc chị H không yêu cầu cấp dưỡng; Về tài sản chung, nợ chung không có, không yêu cầu nên miễn xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Quá trình chung sống, do phát sinh mâu thuẫn không giải quyết được với nhau nên chị Nguyễn Thị Mỹ H khởi kiện yêu cầu ly hôn với anh Trần Minh T được Tòa án thụ lý, giải quyết theo thẩm quyền được quy định tại Điều 28 và Điều 35 của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (BLTTDS 2015).

Anh Trần Minh T với tư cách là bị đơn trong vụ án đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt lần thứ hai không có lý do, căn cứ khoản 2 Điều 227 BLTTDS 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Trần Minh T xác lập quan hệ hôn nhân với nhau vào năm 2013, hôn nhân tự nguyện, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn trễ hạn tại UBND xã H, huyện C, tỉnh Tiền Giang theo giấy chứng nhận kết hôn số 74/2016 ngày 04/8/2016, theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Xét yêu cầu của chị Nguyễn Thị Mỹ H xin được ly hôn với anh Trần Minh T vì lý do vợ chồng bất đồng trong quan điểm sống, tính tình không hợp nhau nên thường xuyên cãi vả, anh T còn nhiều lần đánh chị làm cho cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Đối với anh Trần Minh T, Tòa án đã nhiều lần tống đạt và thông báo hợp lệ các văn bản tố tụng trong đó có 02 lần tống đạt Thông báo mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhằm tạo điều kiện cho vợ chồng anh chị hòa giải, đoàn tụ với nhau nhưng anh T đều không có mặt nên Tòa án không tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải được.

Tại phiên tòa, chị H khai rõ, tuy vợ chồng chưa ly thân nhưng tình cảm dành cho nhau đã không còn, chị cũng không thể chấp nhận một người chồng hay dùng bạo lực gia đình để giải quyết mâu thuẫn trong cuộc sống, vì vậy, chị H cương quyết ly hôn với anh T. Hội đồng xét xử thấy rằng, sau 07 năm chung sống, giữa chị H và anh T đã không còn duy trì được tình cảm yêu thương dành cho nhau nữa, mâu thuẫn thường xuyên xảy ra cụ thể là những lần anh T dùng bạo lực đối với chị H, tuy không gây thương tích gì nhưng đã thể hiện được sự trầm trọng trong cuộc sống hôn nhân của anh chị, làm cho đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H.

[3] Về con chung: Chị H xác định vợ chồng chị có 02 người con chung tên Trần Nguyễn Hoàng Vĩnh Th – sinh ngày 12/6/2014 và Trần Nguyễn Hoàng Thụy N – sinh ngày 22/10/2015, hiện nay, cả 02 cháu đang sống cùng với chị H nên chị yêu cầu được tiếp tục nuôi 02 con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng. Đối với anh T, từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến khi mở phiên tòa xét xử, anh T đều không có mặt cũng không có ý kiến và yêu cầu gì đối với yêu cầu được nuôi con chung của chị H nên Hội đồng xét xử không thể xem xét nguyện vọng của anh T.

Xét yêu cầu nuôi con chung của chị H, HĐXX thấy rằng, hiện nay 02 con đang được chị H chăm sóc, nuôi dưỡng và 02 cháu cũng được phát triển bình thường như những đứa trẻ khác. Vì vậy, cần giao con chung cho chị H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Chị H không yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Mỹ H xác định vợ chồng không có tài sản chung cũng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Án phí ly hôn là 300.000đ chị H phải nộp do có yêu cầu.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015; Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Mỹ H được ly hôn với anh Trần Minh T.

2. Về con chung: Giao 02 con chung tên Trần Nguyễn Hoàng Vĩnh Th – sinh ngày 12/6/2014 và Trần Nguyễn Hoàng Thụy N – sinh ngày 22/10/2015 cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con và có quyền tới lui thăm nom chăm sóc, giáo dục con chung, không ai có quyền cản trở anh thực hiện quyền này.

Khi cần thiết anh chị có quyền làm đơn xin thay đổi quyền nuôi con và cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu án phí là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0005079, ngày 30/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện G, tỉnh Kiên Giang. Như vậy, chị H đã nộp xong án phí.

4. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 22/9/2020). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp ly hôn và tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:54/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giồng Riềng - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;