Bản án 54/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 54/2019/HS-ST NGÀY 24/04/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 24 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 47/2019/HS-ST ngày 08 tháng 4 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 55/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 4 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyn Kim T, sinh ngày 30/01/1987, tại Thái Nguyên; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 12, phường Q, thành phố T, tỉnh Thái Nguyên; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Kim M và bà Dương Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền sự: Không; tiền án: Có 01 tiền án, tại Bản án hình sự sơ thẩm số 340/2016/HSST ngày 18/11/2016, Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 01 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, trị giá tài sản chiếm đoạt là 10.000.000đ; ngày 01/9/2017 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù; nhân thân: Tại Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 124/QĐXPVPHC ngày 25/7/2003, Công an phường Quan Triều, thành phố Thái Nguyên phạt bị cáo 50.000đ về hành vi “Trộm cắp tài sản”, bị cáo đã nộp phạt ngày 28/7/2003; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 191/HSST ngày 22/9/2004, Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên xử phạt bị cáo 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”, ngày 27/5/2008 bị cáo thi hành xong phần án phí; tại Bản án hình sự sơ thẩm số 126/2009/HSST ngày 17/12/2009, Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xử phạt bị cáo 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, trị giá tài sản chiếm đoạt là 16.000.000đ, ngày 05/6/2011 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, ngày 17/12/2009 thi hành xong phần án phí; bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 09/01/2019 cho đến nay (có mặt).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1994; trú tại: Khu hành chính 1, phường L, thành phố V, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 20 giờ 30 phút ngày 09/01/2019, tại khu vực chung cư Bảo Quân, thuộc tổ dân phố Minh Quyết, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, Tổ công tác Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và bắt quả tang Nguyễn Kim T có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện là Nguyễn Tuấn A.

Tang vật thu giữ gồm có: Thu tại túi quần phía sau bên phải T đang mặc 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá và 02 viên nén màu hồng (T tự khai nhận đây là ma túy đá và ma túy tổng hợp của T mang đi để bán kiếm lời), vật chứng được niêm phong có ký hiệu A1; thu tại túi quần phía trước bên trái T đang mặc số tiền 4.500.000đ (T khai nhận trong đó có 500.000đ là tiền T vừa bán ma túy cho Tuấn A mà có); tạm giữ của T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đồng đã qua sử dụng.

Tại kết luận giám định số: 113/KLGĐ ngày 15/01/2019, Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận:“Tinh thể dạng đá màu trắng và 02 viên nén màu hồng đỏ của mẫu A1 gửi giám định là ma túy lẫn tạp chất loại Methamphetamine. Khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,4463g”.

Về nguồn gốc gói ma túy tinh thể dạng đá và 02 viên nén ma túy màu hồng thu giữ Nguyễn Kim T khai nhận: Khoảng 16 giờ ngày 09/01/2019, T đến khu vực bến xe thành phố Vĩnh Yên, thuộc phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên gặp một người nam giới tên T (không rõ họ tên, tuổi và địa chỉ) và hỏi mua được của T 01 gói ma túy đá và 02 viên nén ma túy màu hồng với giá 300.000đ. Sau đó, khoảng 20 giờ 30 phút cùng ngày, T đem gói ma túy đá và 02 viên nén ma túy màu hồng này đến khu vực bãi đỗ xe chung cư Bảo Quân thuộc tổ dân phố Minh Quyết, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên bán cho Nguyễn Tuấn A với giá 500.000đ thì bị phát hiện bắt quả tang như đã nêu trên.

Ti Cáo trạng số: 54/CT-VKSTPVY ngày 08/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Nguyễn Kim T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Ti Cơ quan điều tra Nguyễn Kim T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã nêu trên.

Ti phiên tòa, bị cáo Nguyễn Kim T vẫn khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (bút lục 20, 21 và từ bút lục 68 - 88).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T từ 03 năm đến 03 năm 06 tháng tù. Áp dụng khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,3259 gam ma túy và toàn bộ bao gói ma túy còn lại sau giám định; trả lại Nguyễn Kim T số tiền 4.000.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đồng đã cũ nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ trong tổng số tiền 4.500.00đ đã thu giữ của Nguyễn Kim T.

Bị cáo không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Kim T tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận:

Khong 20 giờ 30 phút ngày 09/01/2019, tại khu vực chung cư Bảo Quân, thuộc tổ dân phố Minh Quyết, phường Khai Quang, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, bị cáo Nguyễn Kim T đã có hành vi bán trái phép chất ma túy cho đối tượng nghiện là Nguyễn Tuấn A thì bị tổ công tác Công an tỉnh Vĩnh Phúc phát hiện và bắt quả tang. Tang vật thu giữ là 01 gói nilon bên trong có chứa các hạt tinh thể dạng đá màu trắng và 02 viên nén màu hồng, được giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,4463 gam.

nh vi phạm tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Kim T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017) có khung hình phạt tù từ 02 đến 07 năm.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 07 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự năm 2015 thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Tc khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân xấu, đã có 01 tiền án về hành vi xâm phạm quyền sở hữu, tiền án đó chưa được xóa án tích lại tái phạm, đây là tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Ngoài ra, về nhân thân, đã 02 lần bị kết án, 01 lần bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm phạm quyền sở hữu, mặc dù các tiền án, tiền sự đó đều được xóa án tích, đã hết thời hiệu được coi là chưa bị xử lý hành chính nhưng cũng chứng tỏ bị cáo là đối tượng rất coi thường pháp luật, không biết ăn năn hối cải để hoàn lương. Trong vụ án này, hành vi được thực hiện với lỗi cố ý, động cơ là thu lời bất chính, hiện tại trên địa bàn thành phố Vĩnh Yên các tội phạm về ma túy có chiều hướng gia tăng, đây là nguyên nhân làm mất ổn định tình hình an ninh chính trị tại địa phương và phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến các tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo đã “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

[3] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng. Tuy nhiên, bị cáo không có tài sản và nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[4] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên đã thực hiện đều hợp pháp.

[5] Đối với các người có liên quan đến vụ án gồm: Người nam giới tên T đã bán ma túy cho T tại bến xe Vĩnh Yên. Quá trình điều tra T khai không biết rõ nhân thân của người này nên Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh, khi nào có căn cứ sẽ đề cập xử lý sau là đúng pháp luật. Đối với Nguyễn Tuấn A là người hỏi mua ma túy của T để sử dụng, nhưng Tuấn A chưa nhận được ma túy thì bị bắt quả tang nên Cơ quan điều tra không đề cập xử lý Tuấn A về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ.

[6] Về vật chứng: Đối với số ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định không có giá trị sử dụng cần tịch thu để tiêu hủy; đối với số tiền 500.000đ trong tổng số tiền 4.500.000đ đã thu giữ của bị cáo T cần tịch thu sung quỹ Nhà nước; đối với số tiền 4.000.000đ và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Samsung màu đồng đã thu giữ của bị cáo T, quá trình điều tra xác định đó là tài sản của bị cáo T và không có liên quan đến tội phạm nên cần trả lại cho chủ sở hữu theo quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 và khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

[7] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt bị cáo Nguyễn Kim T 03 (ba) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 09/01/2019).

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu tiêu hủy 0,3259 gam ma túy và bao gói ma túy hoàn lại sau giám định; tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 500.000đ đã thu giữ của Nguyễn Kim T; trả lại bị cáo Nguyễn Kim T số tiền 4.000.000đ và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu đồng đã qua sử dụng nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án (Đặc điểm tang vật như Biên bản bàn giao vật chứng ngày 09/4/2019).

Căn cứ Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Kim T phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2019/HS-ST ngày 24/04/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 24/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;