TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRẢNG BÀNG, TỈNH TÂY NINH
BẢN ÁN 54/2019/DS-ST NGÀY 08/11/2019 VỀ THỰC HIỆN NGHĨA VỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI CHẾT ĐỂ LẠI
Ngày 08 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 100/2019/TLST- DS ngày 12 tháng 4 năm 2019 về việc “Thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại”; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2019/QĐXXST-DS ngày 18 tháng 10 năm 2019; giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Ngô Thị A, sinh năm 1962. Địa chỉ: Ấp S, xã ĐT, huyện Tr, tỉnh TN – Vắng mặt có đơn xin.
- Bị đơn:
Chị Lê Thị TH B, sinh năm 1999- Có mặt. Cháu Lê Trần Tường D, sinh năm 2009.
Người đại diện hợp pháp của bị đơn: Bà Trần Thị H, sinh năm 1975 là người đại diện theo pháp luật của cháu M- Vắng mặt, được triệu tập hợp lệ lần thứ hai.
Chị N, cháu M, chị H cùng địa chỉ: Ấp S, xã ĐT, huyện Tr, tỉnh TN.
- Người có quyền, lợi nghĩa vụ liên quan:
Ông Lê Thanh BI, sinh năm 1978; địa chỉ: Ấp S, xã ĐT, huyện Tr, tỉnh TN - Vắng mặt có đơn xin.
Bà Nguyễn Thị TH, sinh năm 1972; địa chỉ: Ấp S, xã ĐT, huyện Tr, tỉnh TN - Vắng mặt có đơn xin.
Chị Lê Hiếu TA, sinh năm 1986; địa chỉ: Ấp TL, xã Hiệp TH, huyện GDầu, tỉnh TN- Vắng mặt có đơn xin.
Bà Trần Thị H, sinh năm 1975; địa chỉ Ấp S, xã ĐT, huyện Tr, tỉnh TN - Vắng mặt, được triệu tập hợp lệ lần thứ hai.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và quá trình tham gia tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Ngô Thị A thể hiện lời trình bày có trong hồ sơ:
Bà khởi kiện yêu cầu những người thừa kế của ông Lê Quốc N (Chết năm 2016) trả cho bà số tiền vay và tiền hụi tổng cộng 41.000.000 đồng, cụ thể:
Về tiền hụi chết: Năm 2015 ông N có tham gia 02 dây hụi tháng 1.000.000 đồng do bà làm chủ, cụ thể:
- Dây 01, hụi khui ngày 10-01-2015, mãn hụi ngày 10-3-2016, hụi gồm 15 phần, ông N tham gia 01 phần, hốt hụi đầu tiên, hốt được bao nhiêu tiền bà không nhớ, sau khi hốt ông N đóng được 06 tháng hụi chết, còn nợ lại 08 tháng hụi chết với số tiền 8.000.000 đồng.
- Dây 02, hụi khui ngày nào bà không nhớ chỉ nhớ là cùng năm 2015, ngày mãn hụi theo giấy bà ghi ông N nợ tiền hụi chết là vào ngày 10-8-2016; trong dây hụi này bao nhiêu phần bà cũng không nhớ vì đã qua lâu và đã mất giấy hụi, ông N chơi 01 phần, hốt đầu tiên, hốt được bao nhiêu tiền bà không nhớ; ông N đóng hụi chết đến tháng 8-2015 thì ngưng đóng, còn nợ lại bà 12.000.000 đồng tiền hụi chết.
Tồng cộng tiền tụi chết ông N còn nợ là 20.000.000 đồng.
Về tiền vay: Ông N vay của bà tổng cộng 21.000.000 đồng.
- Lần 01: Ngày 10-8-2015 ông N vay 15.000.000 đồng, có làm giấy tay do ông N tự viết giấy và ký tên, không có tính lãi suất, ông N nói là vay tiền để mua xe.
- Lần 02: Ngày 10-9-2015 ông N vay của bà số tiền 3.000.000 đồng, không có làm giấy, không có tính tiền lãi. Nhưng tiền này do bà vay của anh Trường đưa cho ông N vay nên ông N có hứa mỗi tháng trả 50.000 đồng tiền lãi nhưng chưa trả được số tiền nào nên bà ghi tiền lãi này vào giấy nợ hụi chết. Số tiền này bà không biết ông N vay để làm gì.
- Lần 03: Ngày 29-12-2015 ông N vay của bà số tiền 3.000.000 đồng, không có làm giấy, không có thỏa thuận tiền lãi, ông N nói vay tiền để cho tiền con.
Tất cả các khoản vay ông N có hẹn với bà khi lãnh tiền bảo hiểm thất nghiệp sẽ trả nhưng không trả. Sau đó, ông N tiếp tục hẹn đến khi nhận tiền đền bù sẽ trả, nhưng chưa lãnh tiền thì ông N đã chết.
Vào tháng 8-2016 bà và ông N có gặp nhau chốt nợ hụi và nợ vay tổng cộng là 41.600.000 đồng. Về tiền hụi chết bà ghi giấy nhưng ông N không có ký tên. Còn về tiền vay, 02 lần vay số tiền 6.000.000 đồng do ông N lúc còn sống kêu bà bằng mẹ nên bà đưa tiền mà không làm giấy tờ gì cả.
Trước đây trong đơn khởi kiện bà yêu cầu những người thừa kế của ông N trả cho bà số tiền vay và hụi là 41.600.000 đồng. Nay bà xin thay đổi lại yêu cầu khởi kiện như sau: Bà yêu cầu những người thừa kế được hưởng số tiền đền bù của ông N chết để lại trả cho bà số tiền hụi chết và tiền vay là 41.000.000 đồng, không yêu cầu giải quyết số tiền 600.000 đồng trong tiền hụi chết.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn chị Lê Thị TH B trình bày: Chị là con của ông Lê Quốc N (Chết ngày 17-9-2016). Hiện chị đang sống cùng mẹ là bà Trần Thị C và em gái là Lê Trần Tường D. Khi cha chị chết có để lại 01 phần đất nhưng đã vào quy hoạch khu công nghiệp Phước Đông- Bời Lời. Khi ly hôn, cha mẹ chị chưa giải quyết tài sản chung nên phần này là tài sản chung của cha mẹ chị. Hiện Nhà nước đã đền bù tài sản này rồi nhưng cụ thể bao nhiêu thì chị không biết do mẹ chị là bà C đi lãnh. Ngoài mẹ con chị ra, còn có bà TH (Vợ sau của cha chị) và ông BI là chú ruột của chị nhận số tiền đền bù trên.
Nguyện vọng: Chị không biết số nợ này. Vì sau khi ly hôn với mẹ chị, cha chị đã có vợ sau là bà TH nên chị không đồng ý trả nợ theo yêu cầu của bà A. Khi phân chia phần tiền của cha chị là ông N để lại cũng có bà TH, ông BI được hưởng nên chị yêu cầu những người này cùng có trách nhiệm trả nợ cho cha chị. Tại phiên tòa chị đồng ý trả cho bà A số tiền tương ứng với phần của mình nhưng yêu cầu để khi nào chị đi làm có tiền sẽ trả dần hàng tháng.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, đại diện bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Trần Thị C thể hiện lời trình bày có trong hồ sơ: Bà là mẹ của chị Lê Thị TH B và cháu Lê Trần Tường D. Trước đây bà và ông N là vợ chồng nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn số 101 ngày 21-5-2013 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng. Khi bà và ông N chung sống có tạo được tài sản là 01 phần đất và nhà nhưng đã vào quy hoạch khu công nghiệp Phước Đông- Bời Lời với tổng số tiền đề bù là 359.805.000 đồng. Trong đó, bà và chị B, cháu D nhận 300.000.000 đồng; còn vợ sau của ông N là bà TH và em ruột của ông N là ông BI nhận số tiền 59.805.000 đồng. Nay bà đại diện cháu D không đồng ý trả tiền cho bà A. Vì nợ này do ông N sống chung với bà TH tạo ra nên bà TH phải có nghĩa vụ trả số nợ trên.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị TH thể hiện lời trình bày có trong hồ sơ: Bà và ông N (Chết năm 2016) chung sống với nhau như vợ chồng từ tháng 02-2015 đến khi ông N chết, nhưng không đăng ký kết hôn. Tuy chung sống như vợ chồng nhưng bà và ông N không có sinh hoạt kinh tế chung. Số tiền 41.000.000 đồng là ông N nợ bà A tiền hụi và tiền vay, lúc đầu bà không biết việc ông N nợ tiền bà A. Sau này bà có hỏi thì ông nói là có nợ tiền hụi và tiền vay của mẹ nuôi, khi bà A lên nhà gặp ông N đòi tiền bà mới biết người mẹ nuôi ông N nói là bà A. Bà chỉ biết ông N nợ bà A khoảng 40.000.000 đồng, còn cụ thể nợ như thế nào thì bà không biết. Khi ông N chết có để lại tài sản là số tiền 359.805.000 đồng tiền đền bù phần đất và nhà vào quy hoạch khu công nghiệp Phước Đông- Bời Lời. Bà C và chị B, cháu D nhận 300.000.000 đồng; còn bà và em ruột của ông N là ông BI, chị TA nhận số tiền 59.805.000 đồng. Trong đó, ông BI chia cho bà số tiền 35.000.000 đồng.
Số tiền bà được nhận là tiền đền bù công trình bà xây dựng trên đất của ông N nên bà không đồng ý trả tiền cho bà A. Bà yêu cầu để bà C, chị B, cháu D và anh em ông BI có trách nhiệm trả cho bà A.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Lê Thanh BI thể hiện lời trình bày có trong hồ sơ: Ông là em ruột của ông N (Chết năm 2016). Ông không biết bà A và cũng không biết việc ông N còn nợ tiền hụi chết và tiền vay của bà A. Khi ông N chết có để lại tài sản là số tiền 359.805.000 đền bù phần nhà đất vào quy hoạch khu công nghiệp Phước Đông-Bời Lời. Trong đó, bà C và chị B, cháu D nhận 300.000.000 đồng; còn ông và chị TA, bà TH nhận số tiền 59.805.000 đồng. Trong đó, ông nhận khoản 15.000.000 đồng hay 17.000.000 đồng gì đó, ông không nhớ rõ.
Nguyện vọng: Số tiền của ông nhận không có bao nhiêu nên ông không đồng ý trả tiền cho bà A, ông yêu cầu bà C, chị B và cháu D có trách nhiệm trả tiền cho bà A.
Theo các lời khai và trong quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Lê Hiếu TA thể hiện lời trình bày có trong hồ sơ: Chị là em ruột của ông N, chị không biết bà A và cũng không biết việc ông N nợ tiền bà A. Khi chết ông N có để lại tài sản là 359.000.000 đồng tiền bồi thường đất vô quy hoạch khu công nghiệp Phước Đông- Bời Lời. Ông BI và bà TH tham gia hòa giải tại xã Đôn Thuận có thỏa thuận là tổng số tiền đền bù là 359.000.000 đồng; mẹ con bà C, B và D hưởng số tiền 300.000.000 đồng; còn anh em chị và bà TH hưởng số tiền 59.000.000 đồng. Sau đó, chị được ông BI chia số tiền 9.000.000 đồng, phần còn lại ông BI và chị TH chia nhau, cụ thể bao nhiêu thì chị không biết. Phần của chị và ông BI hưởng là phần thừa kế của mẹ chị là bà Phan Thị Bức (Chết ngày 13-6-2018 (AL)). Chị không có đi tham gia hòa giải và cũng không lãnh tiền. Tiền do ông BI, bà TH trực tiếp lãnh rồi chia lại cho chị.
Nay bà A khởi kiện những người thừa kế của ông N trả lại số tiền ông N nợ bà A là 41.000.000 đồng, ý kiến của chị là mẹ con bà C, B, D hưởng số tiền 300.000.000 đồng của ông N để lại thì phải có trách nhiệm trả nợ cho bà A.
Phần của chị hưởng không bao nhiêu nên chị không đồng ý trả số tiền cho bà A.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh:
1. Việc tuân theo pháp luật tố tụng: Tòa án thụ lý giải quyết vụ án đúng thẩm quyền. Thẩm phán chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án; Hội đồng xét xử tiến hành xét xử đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự và Thư ký phiên tòa thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn. Nguyên đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà TH, ông BI, chị TA đã thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan bà C đã không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
2. Việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào Điều 637 Bộ luật Dân sự năm 2015 đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng tuyên xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà A đối với số tiền vay 15.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A đối với số tiền vay 6.000.000 đồng và tiền hụi 20.000.000 đồng theo Nghị định 144/2006/NĐCP ngày 27-11-2006 của Chính Phủ.
- Không chấp nhận yêu cầu của bà A về việc yêu cầu chị TA, anh BI cùng trả tiền cho bà A. Chấp nhận yêu cầu của bà A yêu cầu chị B, cháu D đại diện là bà C, bà TH trả cho bà A số tiền 15.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, xét thấy:
[1] Về tố tụng: Bà Ngô Thị A, bà Nguyễn Thị TH, ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA vắng mặt có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bà Trần Thị C đã được Tòa án đã triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà A, bà TH, ông BI, chị TA, bà C là phù hợp với quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị A:
Xét việc nguyên đơn thay đổi yêu cầu khởi kiện: Tại đơn khởi kiện ngày 07-02-2019 bà A yêu cầu những người thừa kế của ông N trả cho bà số tiền hụi chết là 20.600.000 đồng, nay bà chỉ yêu cầu giải quyết số tiền hụi chết 20.000.000 đồng, không yêu cầu giải quyết đối với số tiền 600.000 đồng Việc thay đổi yêu cầu khởi kiện của bà A không vượt quá yêu cầu khởi kiện ban đầu, do đó Hội đồng xét xử chấp nhận.
[2.1.1] Xét yêu cầu về tiền hụi chết: Theo lời khai của bà A, năm 2015 ông N (Chết ngày 17-9-2016) có tham gia chơi 02 dây hụi tháng 1.000.000 đồng do bà làm chủ hụi, mỗi dây ông N tham gia 01 phần, hốt đầu tiên nhưng hốt được bao nhiêu tiền bà không nhớ, 02 dây hụi này ông N đóng hụi chết còn nợ lại bà tổng cộng 20.000.000 đồng tiền hụi chết. Sau khi kết thúc hụi vào tháng 8- 2016 bà và ông N có gặp nhau để chốt nợ, bà có viết giấy ông N nợ hụi chết nhưng không có đưa ông N ký tên. Hiện bà chỉ còn giữ giấy hụi của 01 dây hụi khui ngày 10-01-2015, ngày 05-8-2019 bà có đơn yêu cầu xác minh các hụi viên trong dây hụi này. Qua xác minh, các hụi viên đều khẳng định ông N có tham gia chơi hụi và đã hốt hụi, nhưng việc ông N đóng tiền hụi chết như thế nào và còn nợ bà A bao nhiêu tiền thì các hụi viên không biết; bà A cũng không có chứng cứ nào khác chứng minh việc ông N còn nợ bà số tiền hụi chết là 20.000.000 đồng. Do đó, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà A đối với số tiền nợ hụi chết 20.000.000 đồng.
[2.1.2] Xét yêu cầu về tiền vay: Do quen biết nên bà A cho ông N vay tiền 03 lần, tổng cộng là 21.000.000 đồng. Trong 02 lần vay ngày 10-9-2015 và ngày 29-12-2015, mỗi lần ông N vay của bà A số tiền 3.000.000 đồng, nhưng việc vay tiền không có làm giấy và cũng không có ai chứng kiến việc vay tiền giữa ông N với bà A. Phía bị đơn cũng không thừa nhận số nợ này. Do đó, không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của bà A đối với số tiền vay 6.000.000 đồng trên.
Riêng lần vay ngày 10-8-2015 với số tiền 15.000.000 đồng, ông N có làm giấy tay do ông tự viết giấy và ký tên, việc vay tiền không có tính lãi suất, ông N nói là vay tiền để mua xe.Trong suốt quá trình giải quyết vụ án, các bị đơn đều không thừa nhận việc ông N có nợ tiền 15.000.000 đồng của bà A. Nên bà A đã yêu cầu giám định chữ ký của ông Lê Quốc N dưới phần “10/8/2015” trong giấy viết tay có nội dung mượn tiền vào ngày 10-8-2015 mà bà A đã nộp cho Tòa án. Tại kết luận giám định số 282 ngày 30-9-2019 của Viện Khoa học Hình sự- Bộ Công an kết luận chữ ký dưới phần “10/8/2015” trong giấy viết tay có nội dung mượn tiền ngày 10-8-2015 là của ông Lê Quốc N. Từ đó có căn cứ cho thấy việc ông N vay số tiền 15.000.000 đồng của bà A là có thật.
[2.2] Xét lời trình bày của chị B, bà C cho rằng số tiền ông N vay của bà A là nợ chung của ông N, bà TH. Tuy nhiên, việc bà TH chung sống với ông N không có đăng ký kết hôn nên không được pháp luật công nhận là vợ chồng và giấy viết tay có nội dung mượn tiền ngày 10-8-2015 mà bà A cung cấp chỉ do một mình ông N viết và ký tên. Do đó, có đủ cơ sở xác định đây là nợ riêng của ông N.
[2.3] Về tài sản do ông N để lại: Qua lời khai của bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đều trình bày rằng ông N chết để lại số tiền đền bù đất là 359.805.001 đồng. Theo Quyết định số 5373 ngày 08-11-2018 của Ủy ban nhân dân huyện Trảng Bàng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho các đồng thừa kế của ông Lê Quốc N tổng số tiền là 359.805.001 đồng. Tại biên bản làm việc ngày 29-01-2019 tại Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Trảng Bàng chị Lê Thị TH B đã nhận số tiền 300.000.000 đồng, ông Lê Thanh BI và bà Nguyễn Thị TH nhận số tiền 59.805.001 đồng. Qua làm việc, các đương sự thừa nhận hiện chị B, bà C đang trực tiếp quản lý số tiền 300.000.000 đồng. Về phần ông BI, bà TH và chị TA đã phân chia và quản lý số tiền 59.805.001 đồng; cụ thể: Bà TH nhận 35.000.000 đồng; chị TA nhận 9.000.000 đồng và ông BI nhận phần còn lại. Do đó, chị B, bà C, bà TH, ông BI, chị TA phải có trách nhiệm trả tiền cho bà A tương ứng với phần mình đã nhận. Riêng cháu D tuy là hàng thừa kế thứ nhất của ông N nhưng hiện cháu còn nhỏ đang sống cùng bà C và không có quản lý số tiền ông N để lại nên Hội đồng xét xử không buộc cháu phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền cho bà A.
[2.4] Tại thời điểm ông N chết là ngày 17-9-2016 thì hàng thừa kế thứ nhất của ông N gồm có: Chị B, cháu D và bà Bức. Đến ngày 13-6-2018 (AL), bà Bức chết nên ông BI xảy ra tranh chấp và yêu cầu giải quyết chia thừa kế tài sản của ông N để lại tại Ủy ban nhân dân xã Đôn Thuận, ông yêu cầu được hưởng phần của bà Bức. Theo đó, các đương sự đã tự thỏa thuận chia tài sản với nhau và các bên cũng đã nhận tài sản xong. Tuy ông BI, chị TA và bà TH không thuộc hàng thừa kế thứ nhất của ông N, nhưng cả ông BI, bà TH, chị TA đều thừa nhận có nhận 01 phần trong số tiền bồi thường do ông N để lại nên phải có trách nhiệm thực hiện N vụ về tài sản của ông N tương ứng với phần mình đã nhận. Xét lời trình bày của bà TH cho rằng phần tiền được nhận là tài sản bà xây dựng trên đất của ông N nhưng bà lại không cung cấp cho Tòa án bất cứ chứng cứ gì để chứng minh lời trình bày trên nên Hội đồng xet xử không xem xét. Nay, bà A khởi kiện yêu cầu những người đã nhận tài sản của ông N để lại trả cho bà số tiền mà ông N đã vay là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 637 Bộ luật Dân sự năm 2005, nên hội đồng xét xử chấp nhận.
Số tiền 15.000.000 đồng ông N nợ bà A là nghĩa vụ của ông N sẽ được chia như sau: 15.000.000 đồng : 3 phần = 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Trách nhiệm cụ thể được xác định là:
- Chị Lê Thị TH B và bà Trần Thị C phải có trách nhiệm thực hiện N vụ tài sản trong phạm vi tài sản ông N để lại trả cho bà Ngô Thị A số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng.
- Ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA, bà Nguyễn Thị TH phải có trách nhiệm thực hiện N vụ tài sản trong phạm vi tài sản ông N để lại liên đới trả cho bà Ngô Thị A số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu) đồng. (Trong đó: Ông BI có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 1.270.000 đồng, chị TA có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 765.000 đồng, bà TH có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 2.965.000 đồng).
[3] Chi phí giám định chữ ký: Chi phí giám định chữ ký của ông Lê Quốc N trong các vụ án thụ lý số: 84/2019/TLST-DS ngày 20-3-2019; 100/2019/TLST-DS ngày 12/4/2019 và 110/2019/TLST-DS ngày 19-4-2019 là 5.072.000 đồng. Như vậy, chi phí giám định trong vụ án này là 1.690.600 đồng, nguyên đơn đã nộp toàn bộ chi phí này. Do yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ chấp nhận nên bị đơn phải chịu chi phí giám định theo quy định tại Điều 161 của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Cụ thể như sau:
- Chị Lê Thị TH B và bà Trần Thị C có trách nhiệm trả lại cho bà A số tiền 1.127.000 đồng.
- Ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA, bà Nguyễn Thị TH cùng có trách nhiệm liên đới trả lại cho bà A số tiền 563.500 đồng. (Trong đó: Ông BI có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 143.000 đồng, chị TA có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 86.500 đồng, bà TH có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 334.000 đồng).
[5] Như phân tích trên có sơ sở chấp nhận 01 phần đề nghị của Viện kiểm sát về quan điểm giải quyết vụ án.
[6] Án phí: Bà Ngô Thị A, chị Lê Thị TH B; bà Trần Thị C, ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA, bà Nguyễn Thị TH phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 471, 474, 634; 635; 637; 676 Bộ luật Dân sự 2005; Điều 227, 161 Bộ luật Tố tụng Dân sự; Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27-11-2006 của Chính Phủ; Điều 26, 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30- 12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị A đối với số tiền vay 15.000.000 (Mười lăm triệu) đồng.
- Buộc chị Lê Thị TH B và bà Trần Thị C phải có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi tài sản ông N để lại trả cho bà Ngô Thị A số tiền 10.000.000 (Mười triệu) đồng.
- Buộc ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA, bà Nguyễn Thị TH phải có trách nhiệm thực hiện N vụ tài sản trong phạm vi tài sản ông N để lại liên đới trả cho bà Ngô Thị A số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu) đồng. (Trong đó: Ông BI có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 1.270.000 đồng, chị TA có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 765.000 đồng, bà TH có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 2.965.000 đồng).
2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A đối với số tiền nợ hụi chết 20.000.000 đồng và số tiền vay 6.000.000 đồng.
3. Về chi phí giám định chữ ký:
- Chị Lê Thị TH B; cháu Lê Trần Tường D đại diện là bà Trần Thị C có trách nhiệm trả lại cho bà A số tiền 1.127.000 đồng.
- Ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA, bà Nguyễn Thị TH cùng có trách nhiệm liên đới trả lại cho bà A số tiền 563.500 đồng. (Trong đó: Ông BI có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 143.000 đồng, chị TA có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 86.500 đồng, bà TH có trách nhiệm trả cho bà A số tiền 334.000 đồng).
3. Về án phí:
- Bà Ngô Thị A phải chịu số tiền 1.300.000 đồng đối với yêu cầu không được chấp nhận, nhưng được khấu trừ vào số tiền 1.040.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0017053 ngày 12 tháng 4 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Trảng Bàng, bà A còn phải nộp thêm số tiền 260.000 (Hai trăm sáu mươi nghìn đồng).
- Chị Lê Thị TH B và bà Trần Thị C phải chịu chung số tiền 500.000 (Năm trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
- Ông Lê Thanh BI, chị Lê Hiếu TA, bà Nguyễn Thị TH chịu chung số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Chị B có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bà A, cháu D đại diện là bà C, bà C, ông BI, chị TA, bà TH có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
5. Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Bản án 54/2019/DS-ST ngày 08/11/2019 về thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại
Số hiệu: | 54/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Trảng Bàng - Tây Ninh |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 08/11/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về