Bản án 54/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BÀ RỊA, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 54/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/09/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 27 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 296/2018/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2018 về việc “ly hôn, tranh chấp về nuôi con”; theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 57/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 28/8/2018; quyết định hoãn phiên tòa số 37/2018/QĐST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thúy H, sinh năm: 1988 (có mặt)

Địa chỉ: 190/14 tổ 11 đường Nguyễn Thanh Đ, khu phố 5, phường P, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Trung T, sinh năm: 1983 (vắng mặt)

Địa chỉ: Tổ 3 ấp 3, xã N, thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện bản tự hai và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thúy H trình bày:

Bà Nguyễn Thị Thúy H và Nguyễn Trung T tự nguyện chung sống từ năm 2010, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường P, thị xã B (nay là thành phố B), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, theo giấy chứng nhận kết hôn số 41 quyển số 01/2010 ngày 01/7/2010.

Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không hợp nhau về tính cách và quan điểm sống.

Tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt và đã ly thân từ năm 2016 cho đến nay. Sau khi ly thân cả hai không có động thái hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Nay bà H xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông T.

- Về con chung: Quá trình chung sống bà và ông T có 01 người con chung là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 20/11/2010. Bà yêu cầu Tòa án giao cháu A cho bà trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

2 Đối với bị đơn: Qúa trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho ông Nguyễn Trung T nhiều lần để tham gia làm việc và tham gia phiên tòa xét xử, tuy nhiên ông T vẫn vắng mặt không có lí do.

3 Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bà Rịa iểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự có ý kiến như sau:

- Về tố tụng:

Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn là tranh chấp ly hôn, nuôi con. Bị đơn có nơi cư trú tại thành phố B nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Việc thu thập chứng cứ, tổ chức phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải là đúng quy định tại các Điều 97, Điều 208 - 211 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng pháp luật tố tụng. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đúng. Bị đơn không chấp hành đúng pháp luật.

- Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Qua nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận công hai tại phiên tòa sau khi nghe ý iến của Vị đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử sơ thẩm nhận định:

-Về thủ tục tố tụng:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Bà Nguyễn Thị Thúy H có đơn khởi kiện, yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Nguyễn Trung T và giải quyết vấn đề về con chung giữa bà và ông T. Đây là vụ án “ly hôn, tranh chấp về nuôi con” và việc Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn ông Nguyễn Trung T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhiều lần các văn bản tố tụng để tham gia phiên tòa nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn xét xử vụ án trên theo quy định.

-Về nội dung giải quyết:

[2] Bà Nguyễn Thị Thúy H và ông Nguyễn Trung T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2010, đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nên hôn nhân của bà H và ông T là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà H thì sau khi kết hôn bà và ông T chung sống hạnh phúc được thời gian ngắn thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không hợp nhau về tính cách và bất đồng quan điểm sống dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, phải sống ly thân nhau từ năm 2016. Sau khi ly thân cả hai không có động thái hàn gắn tình cảm vợ chồng.

Xét trong mỗi gia đình thì cả vợ chồng đều phải có nghĩa vụ yêu thương, quan tâm và chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau để cùng nhau xây dựng gia đình hạnh phúc. Nhưng ở bà H và ông T thì do mâu thuẫn nên cả hai không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống, phải sống ly thân nhau. Mặt khác trong quá trình giải quyết, Tòa án đã triệu tập ông T nhiều lần để tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa xét xử với mục đích tạo điều kiện cho bà H và ông T quay về chung sống đoàn tụ cùng nhau nhưng ông T đã không có mặt. Điều đó thể hiện ông T không có thiện chí hàn gắn quan hệ hôn nhân của mình.

Vì vậy nhận thấy tình trạng vợ chồng giữa bà H và ông T đã đến mức trầm trọng và đời sống chung không thể kéo dài. Do đó yêu cầu xin ly hôn của bà H là có cơ sở nên được chấp nhận.

Về con chung: Bà H và ông T có 01 người con chung là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 20/11/2010, hiện đang ở cùng với bà H. Bà H yêu cầu Tòa án giao cháu A cho bà trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Xét bà H là người có việc làm và có thu nhập ổn định, đủ điều kiện để nuôi dưỡng cháu A. Do vậy yêu cầu của bà H về việc giao cháu A cho bà trực tiếp nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành (18 tuổi) phù hợp với quy định của pháp luật, với nguyện vọng của con chung, nên được chấp nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà H xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Còn đối với ông T khi nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án đã không có ý kiến gì về các vấn đề này. Do đó Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Bà H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; Khoản 1 Điều 35; Khoản 1 Điều 39; Khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Thúy H

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị Thúy H và ông Nguyễn Trung T được ly hôn.

- Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thúy H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyễn Tuấn A, sinh ngày 20/11/2010 đến tuổi trưởng thành (18 tuổi), Ông Nguyễn Trung T không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Trung T có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của người không trực tiếp nuôi con nếu họ lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con chung, trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

- Về án phí dân sự sơ thẩm: Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bà Nguyễn Thị Thúy H phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tạm ứng án phí bà H đã nộp theo biên lai thu tiền số 0003661 ngày 24/7/2018 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Như vậy bà H đã nộp xong án phí.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/9/2018) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử phúc thẩm (riêng đối với người vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

177
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2018/HNGĐ-ST ngày 27/09/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:54/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bà Rịa - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;