Bản án 54/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐBP, TỈNH ĐB

BẢN ÁN 54/2017/HSST NGÀY 16/08/2017 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 16 tháng 8 năm 2017, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đbp, tỉnh Đb; Tòa án nhân dân thành phố Đbp, tỉnh Đb, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 54/2017/HSST ngày 21/6/2017 đối với:

Bị cáo: TRẦN CHÍ T Tên gọi khác: Không

Sinh ngày 22 tháng 5 năm 1990, tại Đb;

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Tổ dân phố 4, phường T Trường, thành phố Đbp, tỉnh Đb;

Nơi cư trú: Tổ dân phố 4, phường T Trường, thành phố Đbp, tỉnh Đb; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Kinh;

Con ông Trần Thái Học và bà Nguyễn Thị Thịnh;

Vợ con: Chưa có;

Tiền sự: Không; tiền án: Không;

Bị tạm giữ từ ngày 13 tháng 02 năm 2017, sau đó bị tạm giam cho đến nay; có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Mạnh M, sinh năm 1991, nơi cư trú: Tổ dân phố 22, phường Tân T, thành phố Đbp, tỉnh Đb; vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Ngày 11/02/2017, Trần Chí T mua một gói ma túy đá của một người không quen biết. T sử dụng một phần; phần còn lại T cho vào 04 đoạn ống nhựa màu đen, dùng bật lửa hàn kín hai đầu, để trong túi quần.

Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 13/02/2017, khi T đang ngủ tại khách sạn A1, thì Hoàng Mạnh M gọi điện cho T hỏi mua 700.000 đồng ma túy đá và bảo T mang ra phòng trọ của Nguyễn Trọng Việt tại tổ dân phố 20, phường Mường T, thành phố Đbp. T đồng ý và đi xe mô tô BKS 27B1-034.72 (mượn của bà Lò Thị Hom từ trước) đến gặp M. M đưa cho T 700.000 đồng, T nhận tiền rồi lấy trong túi quần một gói nilon, bên trong có hai ống nhựa đựng ma túy đá đưa cho M, M và Việt đã sử dụng hết. Tiền bán ma túy T đã tiêu hết.

Khoảng 06 giờ cùng ngày, M tiếp tục gọi điện cho T hỏi mua nửa gam ma túy đá và bảo T mang đến địa điểm cũ; đến 07 giờ cùng ngày T đi xe mô tô đã mượn của bà Hom đến gặp M, đưa cho M hai ống nhựa đựng ma túy đá và nhận 1.000.000 đồng từ M. T bảo không có tiền trả lại, thì M bảo để lấy thêm cho ba viên hồng phiến. T đồng ý, hẹn trưa mang ra cho M rồi cất tiền vào túi quần, thì bị Công an thành phố Đbp phát hiện bắt quả tang. Thu giữ của T 3.490.000 đồng (trong đó có 1.000.000 đồng tiền M mua ma túy), một xe mô tô BKS 27B1-034.72, một điện thoại di động màu đen kèm sim; thu giữ của M hai ống nhựa màu đen có chứa các hạt tinh thể đá trong suốt (M khai đó là ma túy đá vừa mua của T để sử dụng), một mảnh Polime. Thu trong phòng trọ 01 ống điếu tự chế bằng chai thủy tinh, 01 túi nilon màu trắng, hai đoạn ống nhựa màu đen và hai bật lửa ga.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa:

- Bị cáo Trần Chí T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên; Hoàng Mạnh M khai nhận đã hai lần mua tổng số 04 gói ma túy của T và đã đưa cho T số tiền 1.700.000 đồng.

- Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quan điểm truy tố, hành vi hai lần bán loại ma túy có tên Methamphetamine cho M của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy.

2. Các vấn đề khác:

Kết luận giám định số 208/GĐ-PC54 ngày 20/02/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đb có nội dung: Các hạt tinh thể rắn màu trắng thu giữ của M gửi giám định có trọng lượng 0,45 gam, là chất ma túy loại Methamphetamine, nằm trong danh mục các chất ma túy số thứ tự 67, Danh mục II, Nghị định 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Sau giám định hoàn lại 0,38 gam mẫu vật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có khiếu nại về kết luận Giám định của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đb nêu trên.

3. Cáo trạng của Viện kiểm sát:

Bản cáo trạng số 28/QĐ-VKS-HS ngày 20/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đbp truy tố bị cáo Trần Chí T về tội Mua bán trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194, điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS xử phạt bị cáo Trần Chí T 07 năm đến 07 năm 06 tháng tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy; vật chứng vụ án đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác nhất trí với quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng của bị cáo trước khi HĐXX nghị án: Bị cáo đã thấy việc làm của mình là vi phạm pháp luật, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Đbp, tỉnh Đb, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đbp, tỉnh Đb trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về hành vi bị truy tố của bị cáo:

Lời khai của bị cáo, của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong quá trình điều tra và tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang, kết luận giám định và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án; cụ thể: Ngày 13/02/2017 Trần Chí T hai lần bán cho Hoàng Mạnh M tổng số 04 gói ma túy để sử dụng, M đã trả cho T 1.700.000 đồng và hẹn tiền còn lại lấy thêm 03 viên hồng phiến, nhưng T đã bị bắt trước khi mua được hồng phiến cho M. Để thực hiện việc mua bán này, M đã gọi vào điện thoại di động của T hỏi mua ma túy; hai bên thống nhất số lượng, giá cả, địa điểm, thời gian giao nhận. Trong lần mua bán ma túy thứ hai, khi T vừa giao ma túy cho M và nhận tiền thì bị phát hiện bắt giữ; thu giữ của M 02 gói ma túy, thu giữa của T 1.000.000 đồng tiền vừa bán ma túy cho M.

Theo quy định tại Điều 194 BLHS thì:

1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm;

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

...b. Phạm tội nhiều lần.

Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Hành vi hai lần bán trái phép chất ma túy bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Mua bán trái phép chất ma túy theo điều luật đã viện dẫn.

Về nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Nguyên nhân dẫn đến việc bị cáo phạm tội là do bị cáo sử dụng ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, để có ma túy sử dụng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bố đẻ của bị cáo được Chủ tịch nước tặng thương huân chương trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng. Mức hình phạt và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Đại diện Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo là có cơ sở để chấp nhận.

Về hình phạt bổ sung:

Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 BLHS: "Người phạm tội còn có thể có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng; tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản...". Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo không có tài sản, nghề nghiệp và thu nhập gì. Do đó HĐXX không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về vật chứng vụ án

0,38 gam Methamphetamine còn lại sau giám định, là vật nhà nước cấm lưu hành và những vật chứng khác không còn giá trị sử dụng tịch thu để hủy. Số tiền 1.700.000 đồng M trả cho T để mua ma túy và 01 điện thoại di động kèm sim bị cáo đã dùng để liên lạc mua ma túy tịch thu xung công qũy nhà nước theo quy định tại Điều 41 BLHS và Điều 76 BLTTHS. Trả lại cho bị cáo số tiền 2.490.000 đồng không liên quan đến hành vi phạm tội.

Các vấn đề khác:

Hành vi mua ma túy để sử dụng của M chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm, Cơ quan điều tra đã xử phạt vi phạm hành chính. Bà Hom cho T mượn xe nhưng không biết T sử dụng vào việc phạm tội; vì vậy, HĐXX không đề cập xử lý các đối

tượng này. Bị cáo không quen biết người đã bán ma túy cho bị cáo nên không có cơ sở đấu tranh làm rõ.

Án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Chí T phạm tội "Mua bán trái phép chất ma túy".

2. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1 và khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Trần Chí T 07 (bảy) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ (ngày 13 tháng 02 năm 2017). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3. Vật chứng: Áp dụng khoản 1 điều 41 Bộ luật Hình sự; điểm a, c, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật Tố tụng Hình sự:

Tịch thu để hủy 0,38 gam Methamphetamine, 04 đoạn ống nhựa, 01 túi nilon, 01 ống điếu tự chế bằng chai thủy tinh và 02 bật lửa ga.

Tịch thu sung công qũy nhà nước 1.700.000 (một triệu bảy trăm nghìn) đồng 01 điện thoại di động kèm sim của Trần Chí T.

Trả lại cho Trần Chí T số tiền 2.490.000 đồng.

 (Theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/6/2017 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đbp, tỉnh Đb).

4. Án phí: Áp dụng Điều 99 BLTTHS và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo Trần Chí T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (16/8/2017). Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2017/HSST ngày 16/08/2017 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Điện Biên Phủ - Điện Biên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;