Bản án 54/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MƯỜNG TÈ, TỈNH LAI CHÂU

BẢN ÁN 54/2017/HSST NGÀY 08/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 8 tháng 9 năm 2017, tại xã Nậm K, huyện T xét xử sơ thẩm công khai lưu động vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý 50/2017/HSST, ngày 16 tháng 8 năm 2017 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2017/QĐXX- HSST, ngày 23 tháng 8 năm 2017 đối với bị cáo:

Tống Văn K - Sinh năm 1975 tại xã M, huyện T, tỉnh Lai Châu; Nơi cư trú khu phố 12, thị trấn huyện T, tỉnh Lai Châu; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Dân tộc: Thái; Con ông Tống Văn D - Sinh năm 1945  và con bà Phìn Thị L - Sinh năm 1945; có vợ Phìn Thị T - Sinh năm 1978 và 02 con; Tiền án, tiền sự: Không; Nhân thân đã có án tích; bị bắt tạm giữ ngày 5/6/2017 đến ngày 8/6/2017 bị chuyển tạm giam. Có mặt tại phiên tòa.

NgƯời bào chữa cho bị cáo ông: Trần Hậu T, Luật sư cộng tác viên của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Lai Châu.

NHẬN THẤY

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 10 giờ sáng ngày 4/6/2017, K thuê xe ômđi từ thị trấn huyện T đến đầu bản M, xã H, huyện N, tỉnh Lai Châu. K mua được 3 (Ba) gói Hêrôin với giá 300.000 đồng của một người đàn ông dân tộc Mông, sau đó đi xe ôm quay về nhà đến sáng ngày 5/6/2014 Khánh lấy 01(Một) gói ra sử dụng, số còn lại K cho vào trong một chiếc ví màu đen, khoảng 12 giờ cùng ngày K đi xe khách lên nhà bố mẹ ở bản Bó, xã M thì bị tổ công tác Công an huyện T bắt quả tang và thu giữ của K 03(Ba) gói Hêrôin, qua giám định có khối lượng 0,75 gam. Tại bản kết luận giám định số: 224/GĐ-KTHS ngày 17/6/2017 của phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lai Châu kết luận: Chất bột khô vón cục màu trắng thu giữ của Tống Văn K gửi đến giám định là Hêrôin. Tại bản cáo trạng số: 30/KSĐT-MT ngày 16 tháng 8 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện T truy tố Tống Văn K về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự năm 1999 (tương ứng với khoản 1 Điều249 BLHS năm 2015) tại phiên tòa hôm nay vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện T vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử. Áp dụng khoản 1 Điều 194/ Bộ luật hình sự năm 1999; Về tình tiết giảm nhẹ điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS; Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015;

Xử phạt Tống Văn K từ 02 (Hai) năm 02 (Hai) tháng đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tù về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng Điều 41/ BLHS và Điều 76/ BLTTHS xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Không áp dụng khoản 5 Điều 194/ BLHS là phạt tiền đối với bị cáo, bị cáo không có ý kiến gì tranh luận, nhất trí với bản luận tội và đề nghị của Kiểm sát viên.

Tại phiên tòa hôm nay, người bào chữa cho bị cáo sau khi phân tích tính chất, mức độ phạm tội nhân thân và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS cũng hoàn toàn đồng ý với quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện T đối với bị cáo Tống Văn K về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" HĐ xét xử xem xét áp dụng khỏan 1 điều 194; Xác định cho bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999; Điểm x khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015; Điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015; Điều 47; Khoản 1 Điều 249/BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật, xử phạt theo mức trên khởi điểm quy định tại khoản 1 Điều 249/BLHS 2015 với mức h×nh ph¹t khoảng 02 năm tù, bị cáo không bổ sung gì, đồng ý với lời bào chữa và đề nghị của người bào chữa

XÉT THẤY

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đãđược tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa hôm nay bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, lời nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã được cơ quan tiến hành tố tụng thu thập có trong hồ sơ vụ án như vậy có đủ cơ sở để kết luận: Ngày 5/6/2017 Tống Văn K đã có hành vi tàng trữ 0,75 gam thuốc phiện mục đích là để sử dụng. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội" Tàng trữ trái phép chất ma túy" vì vậy Viện kiểm sát nhân dân huyện T đã truy tố bị cáo về tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo khoản 1 Điều 194 BLHS là hoàn toàn đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm vào chế độ quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy,  gây mất trật tự an toàn xã hội tại địa phương, bị cáo hiểu được điều đó nhưng vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Do vậy Hội đồng  xét xử xét thấy cần phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra nhằm cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, có ích cho xã hội và gia đình. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Xét bị cáo Tống Văn K không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại Điều 48/BLHS. Về tình tiết giảm nhẹ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử bị cáo luôn có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS. Về nhân thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, từ nhỏ sống với bố mẹ, được bố mẹ nuôi cho ăn học hết lớp 12/12, đã có thời gian công tác tại trung tâm y tế huyện T, bản thân là người sử dụng chất ma túy , đã có 01 tiền án về tội trộm cắp tài sản nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học để tu dưỡng rèn luyện chỉ vì mục đích thỏa mãn nhu cầu sử dụng chất ma túy ( Hêrôin) của bản thân nên đã phạm tội. Về hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 194/ BLHS bị cáo có thể bị phạt tiền từ 5 triệu đồng đến 5 trăm triệu đồng, vì điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình và bản thân bị cáo khó khăn Hội đồng xét xử miễn hình phạt tiền cho bị cáo.

Vật chứng của vụ án là 01(Một) chiếc ví màu đen dùng cất giấu Hêrôin của Tống Văn K cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại Điều 41/BLHS và Điều 76/BLTTHS.

Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46/BLHS; Điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017; Khoản 3 Điều 7 BLHS năm 2015: Xử phạt bị cáo Tống Văn K 02 (Hai) năm 02 (Hai) tháng tù về tội " Tàng trữ trái phép chất ma túy", thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 5 tháng 6 năm 2017.

- Áp dụng Điều 41/BLHS và Điều 76/Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

+. Tịch thu, tiêu hủy 01(Một) chiếc ví màu đen dùng cất giấu Hêrôin của Tống Văn K.

- Áp dụng Điều 99 BLHS; Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UNTVQH14 về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Tống Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

- Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

202
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 54/2017/HSST ngày 08/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:54/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường Tè - Lai Châu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;