Bản án 540/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN LONG BIÊN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 540/2020/HNGĐ-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân quận Long Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 295/2020/TLST – HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2020 về việc tranh chấp ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2020/QĐXX ngày 14 tháng 8 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 38A/2020/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 9 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Hồng H, sinh năm 1979 HKTT: phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội (có đơn xin xét xử vắng mặt)

2. Bị đơn: Anh Vũ Công A, sinh năm 1974 HKTT: phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện và các lời khai tại Toà án, nguyên đơn, chị Nguyễn Hồng H trình bày:

Chị Nguyễn Hồng H và anh Vũ Công A kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội vào ngày 09/12/2005.

Sau khi kết hôn, vợ chồng anh chị chung sống H phúc đến năm 2008 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, bất đồng về việc xây dựng kinh tế, anh A sống không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên cờ bạc dẫn đến nợ nần không có khả năng thanh toán nợ. Năm 2012 anh A lại đi trốn nợ bỏ lại mẹ con chị. Anh A trốn khỏi nhà gần một năm mới quay về. Năm 2014 chị đã làm đơn ly hôn nhưng khi đến Tòa án anh A xin lỗi và được cán bộ tòa hòa giải nên chị đã rút đơn về. Nhưng anh A vẫn chứng nào tật nấy và tiếp tục chơi bời không chú tâm làm ăn. Vợ chồng chị đã sống ly thân với nhau từ năm 2018. Đến nay, mâu thuẫn vợ chồng đã căng thẳng, tình cảm vợ chồng không còn, chị xin được ly hôn với anh A.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Vũ A, sinh ngày 19/11/2007 và Vũ Nguyễn K N, sinh ngày 24/11/2012. Khi ly hôn chị xin được nuôi con chung và không yêu cầu anh A đóng góp phí tổn nuôi con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị không yêu cầu anh A đóng góp phí tổn nuôi con chung. Hiện nay chị đang làm chuyên viên của Tổng công ty quản lý bay Việt Nam, thu nhập trung bình là 10.000.000 đồng/tháng Về tài sản chung và công nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu tòa án giải quyết.

Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị xin tự nguyện chịu toàn bộ theo quy định của pháp luật.

Đối với bị đơn anh Vũ Công A: Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh A đến Tòa án nhưng anh A vẫn vắng mặt không có lý do vì vậy Tòa án không thể tiến hành lấy lời khai của đương sự trên.

Tại phiên tòa hôm nay, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt và anh A vắng mặt lần thứ 2 không có lý do. Vì vậy HĐXX xét xử vắng mặt các đương sự.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Long Biên tại phiên toà phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Thẩm phán, Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử tiến hành tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn chấp hành đúng quy định pháp luật, bị đơn không chấp hành đúng quy định của pháp luật.

Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về con chung: giao cho chị H trực tiếp nuôi 02 con chung. Về cấp dưỡng nuôi con chung: chị H không yêu cầu anh A đóng góp phí tổn nuôi con chung, nên đề nghị HĐXX không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung vợ chồng: không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị HĐXX không xem xét  .

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả diễn biến tại phiên toà, sau khi thảo luận và nghị án, Hội đồng xét xử nhận định:

* Về tố tụng: Chị Nguyễn Hồng H khởi kiện vụ án về việc “Tranh chấp ly hôn” đối với bị đơn là anh Vũ Công A HKTT: phường Phúc Lợi, quận Long Biên, thành phố Hà Nội nên việc TAND quận Long Biên thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 39 BLTTDS.

Việc nguyên đơn chị H có đơn xin xét xử vắng mặt và chị giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, lời trình bầy có trong hồ sơ vụ án thuộc trường hợp được quy định tại khoản 1 điều 227 BLTTDS, nên HĐXX chấp nhận.

Bị đơn là anh Vũ Công A: Quá trình tiến hành giải quyết vụ án Tòa án nhân dân quận Long Biên đã tiến hành tống đạt hợp lệ đối với anh Vũ Công A nhưng anh A vẫn vắng mặt. Do đó Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh A là phù hợp quy định tại điều 227, điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

* Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Hồng H và anh Vũ Công A kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại UBND phường Phúc Lợi, quận Long Biên, Hà Nội vào ngày 09/12/2005. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp.

Các chứng cứ có tại hồ sơ vụ án thể hiện, vợ chồng anh chị chung sống phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do mâu thuẫn về kinh tế, anh A sống không có trách nhiệm với gia đình, thường xuyên cờ bạc dẫn đến nợ nần không có khả năng thanh toán nợ. Năm 2014 chị H đã làm đơn ly hôn nhưng được hòa giải nên đã rút đơn về. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần thông báo yêu cầu anh A đến Tòa án để hòa giải nhưng anh A đều vắng mặt không có lý do. Vì vậy Tòa án không thể tiến hành hòa giải để anh chị quay về đoàn tụ. Việc anh A cố tình vắng mặt tại các phiên hòa giải thể hiện anh A không có thiện chí để hòa giải đoàn tụ vợ chồng.

Nay, chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, chị xin được ly hôn với anh A.

Xét thấy tình trạng hôn nhân của chị H và anh A như vậy là có mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài. Việc Chị H làm đơn xin ly hôn với anh A là có căn cứ, là nguyện vọng chính đáng, phù hợp điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Vũ A, sinh ngày 19/11/2007 và Vũ Nguyễn K N, sinh ngày 24/11/2012.

HĐXX thấy, theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:

“1. Sau khi ly hôn, vợ chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.

2. Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ và quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu từ đủ 7 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con

3…..”

Khi ly hôn, chị H có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng nuôi 02 cháu và không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay chị đang làm việc tại Tổng công ty quản lý bay Việt Nam, thu nhập trung bình là 10.000.000 đồng/tháng. Cháu Vũ A, sinh ngày 19/11/2007 và cháu Vũ Nguyễn K N, sinh ngày 24/11/2012, tại thời điểm xét xử các cháu đều trên 7 tuổi và có nguyện vọng xin được ở với chị H. Căn cứ vào quyền lợi mọi mặt của các cháu, HĐXX nên chấp nhận yêu cầu của chị H giao cháu Vũ A và cháu Nguyễn K N cho chị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế và Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng: Chị H không yêu cầu anh A đóng góp tiền nuôi con chung nên tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung của anh A cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có yêu cầu mới theo quy định của pháp luật.

* Về tài sản chung: các đương sự không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt vấn đề giải quyết.

* Về án phí: Chị H phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271, Điều 272 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Xử:

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa chị Nguyễn Hồng H và anh Vũ Công A

2. Về nuôi con chung

2.1. Giao cháu Vũ A, sinh ngày 19/11/2007 và cháu Vũ Nguyễn K N, sinh ngày 24/11/2012 cho chị Nguyễn Hồng H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

2.2. Tạm hoãn việc đóng góp phí tổn nuôi con chung đối với anh A cho đến khi con chung trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có yêu cầu mới theo quy định của pháp luật.

Không ai được ngăn cản quyền gặp gỡ và chăm sóc con chung.

3. Tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết 4. Về án phí: Chị Nguyễn Hồng H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm. Chị H đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí theo biên lai số 0016338 ngày 09/6/2020 tại Chi cục thi hành án quận Long Biên. Nay chuyển thành án phí.

Án xử công khai sơ thẩm.

Chị H, anh A có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

161
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 540/2020/HNGĐ-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:540/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Long Biên - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;