Bản án 539/2019/HS-PT ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 539/2019/HS-PT NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 470/2019/HSPT ngày 25/10/2019 đối với bị cáo Lê Thành N do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 130/2019/HSST ngày 18/09/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1.

Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thành N, sinh năm 1999 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: 214 đường L.T.H, phường B, quận T, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Căn hộ C5, chung cư 482A đường N.T.L, Phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: không; giới tính: nam; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn Đ và bà Phạm Thị Hà P; chưa có vợ con; tiền án: không; tiền sự: không; bị bắt tạm giam ngày 05/6/2019. (có mặt).

Người bào chữa: Luật sư Lê Thành Tâm thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo Lê Thành N. (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do nghiện ma túy nên ngày 28/5/2019, Lê Thành N gọi điện thoại cho đối tượng tên Vân không rõ lai lịch để mua 30 viên ma túy ở thể rắn loại MDMA, giá 190.000 đồng/01 viên và 01 gói loại Ketamine, giá 8.000.000 đồng để sử dụng. N đến trước Trạm xăng dầu Nguyễn Tri Phương tại số 49 đường Thành Thái, Phường 10, Quận 10 gặp Vân để nhận ma túy, do N mua ma túy với số lượng nhiều nên Vân cho thêm 01 viên MDMA. Sau khi mua ma túy, N cất vào túi xách để sử dụng. Khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/6/2019, N điều khiển xe gắn máy biển số: 59C2 - 64401 chở bạn là Đỗ Thị Kim Tiền đi ăn tối, khi đến trước số 07 đường Nguyễn Trãi, phường Bến Thành, Quận 1 thì bị tổ tuần tra đội Cảnh sát Điều tra tội phạm về ma túy Công an Quận 1 phát hiện, yêu cầu về Công an phường Bến Thành kiểm tra, làm rõ. Qua kiểm tra phát hiện, thu giữ trong túi xách đeo chéo trên người của N có 01 vỏ bao thuốc lá "555" bên trong có đựng 01 mảnh giấy gói 03 gói nylon, mỗi gói nylon có 10 viên MDMA, 01 gói nylon chứa Ketamine và 01 hộp màu hồng bên trong có 01 gói nylon chứa 01 viên MDMA nên tiến hành thu giữ vật chứng và lập biên bản bắt người phạm tội qua tang. Tại cơ quan điều tra, N khai nhận số ma túy trên là của N mua để sử dụng, do giá rẻ nên mua số lượng nhiều cất giữ trong người để sử dụng dần, việc N cất giữ ma túy trong người Tiền không biết.

Theo bản kết luận giám định số: 1246/KLGĐ-H ngày 14/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: bao thuốc lá hiệu "555" chứa 01 gói giấy chứa: 10 viên nén hình tròn màu vàng trong 01 gói ny lon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,3151g, loại MDMA; 10 viên nén hình tròn màu vàng trong 01 gói ny lon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,3051g, loại MDMA; 10 viên nén hình tròn màu vàng trong 01 gói ny lon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 3,2909g, loại MDMA. Tinh thể không màu trong 01 gói nylon là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 7,9682g, loại Ketamine. 01 viên nén hình tròn màu vàng trong 01 gói nylon (để trong 01 hộp màu hồng) là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,3422g, loại MDMA.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 130/2019/HSST ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên bố bị cáo Lê Thành N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ điểm n khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Thành N 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn tuyên xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Ngày 01/10/2019, bị cáo Lê Thành N có đơn kháng cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân Quận 1 xin giảm nhẹ hình phạt.

Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lê Thành N đã thừa nhận những hành vi phạm tội do bị cáo gây ra như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do mức án Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là quá nặng, bị cáo đã nhận thức được việc làm của mình là sai trái, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình có hoàn cảnh khó khăn.

Trong phần tranh luận, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xác định bản án sơ thẩm đã áp dụng đúng các căn cứ pháp luật để xử phạt bị cáo Lê Thành N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, sau khi xét xử sơ thẩm bị cáo kháng cáo trong thời gian hợp lệ. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, có đưa thêm thông tin là cha của bị cáo là người có công với cách mạng và sau khi xét xử sơ thẩm gia đình bị cáo đã nộp số tiền phạt bổ sung 10.000.000 đồng thay cho bị cáo nên đề nghị xem xét thêm cho bị cáo là tình tiết giảm nhẹ mới. Tuy nhiên, bị cáo đã tàng trữ ma túy với khối lượng lớn nằm ở giữa khung hình phạt của khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự nên mức án 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là phù hợp. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Luật sư Lê Thành Tâm trình bày bài bào chữa cho bị cáo thống nhất về tội danh, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì: bị cáo không có tình tiết tăng nặng, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm phúc thẩm đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; nhân thân tốt, phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự; có ông cố ngoại là liệt sỹ, có cha là ông Lê Văn Đức đã tham gia nghĩa vụ quốc tế giai đoạn năm 1986 – 1989 được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến vì có những thành tích và chiến công xuất sắc trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/11/2019 cha của bị cáo đã nộp thay cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm; khối lượng ma túy bị cáo bị thu giữ nếu quy đổi chỉ là hơn 12 gam chưa bằng một nửa khối lượng ma túy mà khung hình phạt truy tố.

Bị cáo Lê Thành N đồng ý với bài bào chữa của vị luật sư, không bổ sung gì thêm.

Đối đáp lại quan điểm của luật sư, đại diện Viện kiểm sát cho rằng luật sư không tranh luận về tội danh mà chỉ nêu các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Bị cáo Lê Thành N không tranh luận gì thêm, chỉ nói lời sau cùng xin giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về gia đình, hòa nhập xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 1, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân Quận 1, Kiểm sát viên, Tòa án nhân dân Quận 1, Thẩm phán trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại các bản tự khai, biên bản ghi lời khai, bị cáo đều trình bày lời khai hoàn toàn tự nguyện, không bị ép cung, nhục hình. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa phúc thẩm ngày hôm nay, bị cáo Lê Thành N đã thừa nhận hành vi sai trái do bị cáo gây ra tương tự như nội dung bản án sơ thẩm đã nêu. Cụ thể: do nghiện ma túy nên ngày 28/5/2019, bị cáo gọi điện đặt mua của đối tượng tên Vân không rõ lai lịch để mua và nhận ma túy tại trước Trạm xăng dầu Nguyễn Tri Phương tại số 49 đường Thành Thái, Phường 10, Quận 10. Sau khi nhận ma túy, bị cáo cất vào túi xách để mang về sử dụng, đến khoảng 20 giờ 45 phút ngày 05/6/2019, bị cáo điều khiển xe gắn máy biển số: 59C2 - 64401 chở bạn là Đỗ Thị Kim Tiền đi ăn tối, khi đến trước số 07 đường Nguyễn Trãi, phường Bến Thành, Quận 1 thì bị kiểm tra, phát hiện và thu giữ toàn bộ vật chứng là ma túy với khối lượng 10,2533g ma tuý ở thể rắn, loại MDMA và 7,9682g ma tuý ở thể rắn loại Ketamine. (Theo bản kết luận giám định số: 1246/KLGĐ-H ngày 14/6/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu chứng cứ khác như các biên bản hoạt động điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, vật chứng thu giữ, kết luận giám định… nên Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” thuộc trường hợp tàng trữ hai chất ma túy mà tổng khối lượng của các chất này tương đương với khối lượng chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm e đến điểm m khoản này, tội phạm và hình phạt quy định tại điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội, không oan sai.

[3] Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và chưa có tiền án, tiền sự; có ông cố ngoại Hà Văn Liêm là liệt sĩ theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[4] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo và luật sư bào chữa cho bị cáo đều nêu lại các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét thêm về hoàn cảnh, nguyên nhân, động cơ bị cáo phạm tội và hoàn cảnh gia đình bị cáo hiện tại rất khó khăn.

Xét thấy, trong lần phạm tội này, bị cáo Lê Thành N không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: quá trình điều tra và tại các phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm đã thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải; có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu chưa có tiền án, tiền sự; đã tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án; khối lượng ma túy bị thu giữ khi quy đổi tương đương với 12gam loại MDMA, bị cáo mua về chỉ để sử dụng cho riêng mình, không nhằm để bán hay phát tán ra ngoài xã hội; có ông cố ngoại là Hà Văn Liêm là liệt sỹ, có hoàn cảnh gia đình khó khăn; có cha là ông Lê Văn Đức được Nhà nước tặng thưởng huân chương kháng chiến vì có những thành tích và chiến công xuất sắc trong thực hiện nghĩa vụ quốc tế tại chiến trường Campuchia, sau khi xét xử sơ thẩm ngày 16/11/2019 gia đình bị cáo đã nộp thay cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung theo bản án sơ thẩm. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Với tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân của bị cáo và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự kể trên thì mức án 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên là có phần nghiêm khắc, chưa tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo gây ra, chưa xem xét đầy đủ, toàn diện vai trò của bị cáo và thể hiện sự nhân đạo của nhà nước trong trường hợp người phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt, nhằm giáo dục, răn đe ngăn ngừa tội phạm và tạo điều kiện cho họ sớm cải tạo tốt, trở về gia đình, hòa nhập xã hội. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận quan điểm của luật sư bào chữa cho bị cáo, sửa bản án sơ thẩm theo hướng giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt.

Do chấp nhận kháng cáo nên bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Ghi nhận sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/11/2019, gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp thay cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung để sung vào ngân sách nhà nước.

Các vấn đề khác không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự;

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Lê Thành N, sửa bản án sơ thẩm số 130/2019/HSST ngày 18/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận 1.

Tuyên bố bị cáo Lê Thành N phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ điểm n khoản 2, khoản 5 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt Lê Thành N 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 05/6/2019.

Ghi nhận sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 16/11/2019, gia đình bị cáo đã tự nguyện nộp thay cho bị cáo số tiền 10.000.000 đồng tiền phạt bổ sung để sung vào ngân sách nhà nước theo Lệnh chuyển tiền kiêm giấy nộp tiền ngày 16/11/2019 do Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank) phát hành.

Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 539/2019/HS-PT ngày 18/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:539/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;