Bản án 533/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 533/2020/HS-ST NGÀY 30/12/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 712/2020/TLST-HS ngày 09/11/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 6221/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 12 năm 2020, đối với các bị cáo:

1. Phạm Trung T; sinh ngày: 03/7/2003, tại Thành phố Hồ Chí Minh; đăng ký thường trú: A12/6 ấp 1, xã L, huyện B, Thành phố H; tạm trú: C2/39B Ấp 3, xã V, huyện B, Thành phố H; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn): 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Văn N và bà Nguyễn Thị L; tiền sự: không có; tiền án: không có; bị bắt, tạm giam ngày: 23/5/2020; có mặt tại phiên tòa.

2. Giang Chí P; sinh ngày: 25/01/2003, tại tỉnh Bến Tre; thường trú: 552 C1, khu phố 1, phường P, thành phố B, tỉnh B; tạm trú: 79/82 C, phường BHH B, quận BT, Thành phố H; nghề nghiệp: không có; trình độ văn hóa (học vấn):

8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Giang Chí V và bà Đặng Như Y; tiền sự: không có; tiền án: không; bị bắt, tạm giam ngày: 23/5/2020; có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Phạm Trung T: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1978 - là mẹ ruột của bị cáo; nơi cư trú: A12/6 Ấp 1, xã L, huyện B, Thành phố H; có mặt tại phiên tòa.

- Người đại diện hợp pháp của bị cáo Giang Chí P: Bà Đặng Như Y, sinh năm 1977 - là mẹ ruột của bị cáo; nơi cư trú: 79/82 C, phường BHH B, quận BT, Thành phố H; có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại: Bà T.A, sinh năm: 1977; quốc tịch: Nhật Bản; nơi cư trú: số 38 đường T4B, phường T, quận TP, Thành phố H; vắng mặt tại phiên tòa.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Hàng Đức T1, sinh năm: 1981; nơi cư trú: 472 B, phường BHH B, quận BT, Thành phố H; có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Phạm Trung T và bị cáo Giang Chí P: Ông Trần Văn T2 - Luật sư của Công ty Luật TNHH Một thành viên MT thuộc Đoàn Luật sư Thành phố H; địa chỉ: Số 9 N, phường TSN, quận TP, Thành phố H; có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Phạm Trung T và Giang Chí P là bạn bè quen biết với nhau. Vào khoảng 12 giờ 30 ngày 22/5/2020, cả hai rủ nhau đi chiếm đoạt tài sản của người khác để bán lấy tiền tiêu xài. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, khi bị cáo T điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 59N3-AAA.BB chở bị cáo P trên đường Lê Trọng Tấn, quận Tân Phú thì thấy bà T.A đang ngồi sau xe máy và sử dụng điện thoại di động nên điều khiển xe chạy bám theo sau. Khi đến trước nhà số 509 đường Lê Trọng Tấn, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, thì bị cáo T điều khiển xe chạy lên cùng chiều, áp sát bên trái để bị cáo P ngồi sau dùng tay phải giật chiếc điện thoại di động trên tay của bà T.A, rồi tăng ga xe bỏ chạy. Bà T.A đã đến công an phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú để trình báo sự việc.

Sau khi chiếm đoạt được điện thoại, cả hai đem điện thoại đến Cửa hàng điện thoại di động BT - địa chỉ: số 472 đường B, phường BHH B, quận BT, Thành phố H - bán cho ông Hàng Đức T1 là chủ cửa hàng được 2.000.000 đồng. Cả hai chia nhau mỗi người 1.000.000 đồng, bị cáo T đã tiêu xài cá nhân hết 300.000 đồng.

Qua truy xét, ngày 23/5/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã bắt được Phạm Trung T, Giang Chí P và thu giữ được các vật chứng có liên quan. Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh, cả hai đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như trên. Theo Kết luận định giá tài sản, thì chiếc điện thoại mà cả hai chiếm đoạt trị giá 7.211.000 đồng. Cơ quan điều tra đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can đối với Phạm Trung T, Giang Chí P về hành vi chiếm đoạt tài sản.

Bản Cáo trạng số 531/CT-VKS-P2 ngày 30 tháng 10 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Phạm Trung T và Giang Chí P tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa, - Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh trình bày lời luận tội, giữ quan điểm như truy tố, nêu lên các tình tiết giảm nhẹ và đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo Phạm Trung T, Giang Chí P từ 02 năm đến 03 năm tù; đề nghị hướng xử lý vật chứng, tài sản thu giữ theo quy định. Về trách nhiệm dân sự, bị hại đã được giao trả lại các tài sản bị chiếm đoạt, đã được bồi thường và không có yêu cầu bồi thường gì thêm, nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

- Người bào chữa cho các bị cáo - ông Trần Văn T2 trình bày: thống nhất về tội danh, điều khoản mà Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố đối với các bị cáo. Đồng thời, nêu bị cáo có các tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”, “ăn năn hối cải”, có nhân thân tốt và đây là lần đầu phạm tội, gia đình bị cáo T có truyền thống cách mạng; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại, khi phạm tội các bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên nhận thức cũng có phần hạn chế. Đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt các bị cáo mức án thấp nhất để thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và các bị cáo sớm trở về với gia đình.

- Người đại diện hợp pháp của các bị cáo - bà Nguyễn Thị L, bà Đặng Như Y: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

- Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung cáo trạng nêu và xin được hưởng mức án thấp nhất.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan - ông Hàng Đức T1 - trình bày: khi mua chiếc điện thoại di động từ các bị cáo, ông không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, khi biết sự việc đã giao nộp chiếc điện thoại lại cho cơ quan điều tra. Nay, ông xin nhận lại số tiền 1.700.000 đồng mà cơ quan điều tra đang thu giữ và không yêu cầu các bị cáo trả 300.000 đồng đã tiêu xài.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận của các bị cáo Phạm Trung T và Giang Chí P phù hợp với các lời khai tại cơ quan điều tra, những chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở để xác định vào khoảng 13 giờ 30 phút ngày 22/5/2020, tại trước nhà số 509 đường Lê Trọng Tấn, phường Sơn Kỳ, quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo T đã có hành vi điều khiển xe mô tô hai bánh biển số 59N3- AAA.BB áp sát bà T.A (đang ngồi sau xe máy chạy phía trước cùng chiều) để bị cáo P ngồi sau dùng tay chiếm đoạt chiếc điện thoại di động của bà T.A, rồi nhanh chóng tăng ga xe bỏ chạy.

Tài sản mà cả hai bị cáo cùng nhau chiếm đoạt của bà T.A là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu bạc, dung lượng 256GB, phiên bản quốc tế, đã qua sử dụng. Theo Kết luận định giá tài sản số 4568/KL-HĐĐGTS ngày 23/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản thường xuyên trong tố tụng hình sự cấp Thành phố, thì chiếc điện thoại này trị giá 7.211.000 đồng.

[3] Thủ đoạn công khai, bất ngờ giật lấy tài sản của người khác có giá trị như nêu trên, rồi nhanh chóng tẩu thoát mà các bị cáo thực hiện đã thỏa mãn đầy đủ các yếu tố cấu thành tội “Cướp giật tài sản”. Đồng thời, hành vi dùng mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản là tình tiết “dùng thủ đoạn nguy hiểm”. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh truy tố các bị cáo Phạm Trung T, Giang Chí P tội danh “Cướp giật tài sản” theo điểm d khoản 2 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định.

[4] Các bị cáo có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, ý thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện nên có lỗi cố ý trực tiếp, các bị cáo cố ý cùng thực hiện tội phạm nên hành vi phạm tội mang tính đồng phạm. Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến khách thể được luật hình sự bảo vệ đó là quyền sở hữu đối với tài sản của công dân, gây mất trật tự trị an xã hội, tạo tâm lý hoang mang, lo sợ cho mọi người trong việc quản lý tài sản. Vì vậy, cần phải xử các bị cáo mức hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội nhằm mục đích giáo dục các bị cáo và răn đe, phòng ngừa cho toàn xã hội.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: những tình tiết giảm nhẹ mà người bào chữa cho các bị cáo nêu tại phiên tòa là có căn cứ nên được chấp nhận. Các bị cáo được áp dụng các tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo”, tại phiên tòa tỏ ra “ăn năn hối cải”; có nhân thân tốt, đây là lần đầu phạm tội; tài sản bị chiếm đoạt đã được thu hồi trả lại cho bị hại; bị cáo T có bác ruột là Liệt sĩ. Những tình tiết giảm nhẹ này được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017). Ngoài ra, các bị cáo được áp dụng nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội theo quy định tại Điều 91 của của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[8] Về xử lý vật chứng thu giữ trong vụ án và trách nhiệm dân sự:

- Bị hại bà T.A - đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt là chiếc điện thoại di động hiệu Iphone 8, màu bạc, dung lượng 256GB và không có ý kiến hay yêu cầu bồi thường gì thêm, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

- Vật chứng, tài sản, vật dụng thu giữ của bị cáo Phạm Trung T:

+ 01 xe môtô hai bánh nhãn hiệu Honda Vario màu bạc đen biển số 59N3- AAA.BB: là phương tiện các bị cáo sử dụng vào việc phạm tội, chiếc xe này thuộc sở hữu của bà Nguyễn Thị L - mẹ ruột của bị cáo Phạm Trung T. Xét thấy, bà L cho bị cáo mượn sử dụng, không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo, nên trả lại chiếc xe lại cho bà.

+ 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s Plus, màu xám bạc: đây là điện thoại bà L cho T mượn sử dụng và không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bà L.

+ 01 áo sơ mi màu đen có hoa văn ở cổ áo có chữ Give, 01 quần đùi jean ngắn màu đen có chữ DSOUARED, 01 khẩu trang vải sọc caro đen vàng trắng và 01 đôi dép màu đỏ có 3 sọc trắng có chữ “Adidas”: đây là những đồ dùng cá nhân của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo.

- Vật chứng, tài sản, vật dụng thu giữ của bị cáo Giang Chí P:

+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo A5, màu đen: đây là điện thoại bà Đặng Như Y cho P mượn để sử dụng và không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho bà Ý.

+ 01 áo màu xanh, 01 quần jean màu xanh đen và 01 đôi dép màu đỏ: đây là những đồ dùng cá nhân của bị cáo, nên trả lại cho bị cáo.

- 01 điện thoại di động Nokia 135, màu đen thu giữ của ông Hàng Đức T1: tài sản này không chứng minh được liên quan đến hành vi phạm tội, nên trả lại cho ông T1.

- Số tiền 1.700.000 đồng thu giữ của các bị cáo T, P: đây là số tiền có được từ việc bán chiếc điện thoại di động Iphone 8 của bà T.A. Xét thấy, khi nhận mua chiếc điện thoại với giá 2.000.000 đồng, ông Hàng Đức T1 ngay tình, không biết đây là tài sản do phạm tội mà có, khi biết sự việc ông T1 đã giao nộp lại chiếc điện thoại di động cho cơ quan điều tra. Do vậy, trả lại cho ông T1 số tiền 1.700.000 đồng đã thu giữ, số tiền 300.000 đồng còn lại ông T1 không yêu cầu các bị cáo phải trả lại, nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d khoản 2 Điều 171; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với các bị cáo Phạm Trung T và Giang Chí P:

Tuyên bố các bị cáo Phạm Trung T, Giang Chí P phạm tội “Cướp giật tài sản”.

 Xử phạt bị cáo Phạm Trung T 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2020.

Xử phạt bị cáo Giang Chí P 02 (hai) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 23/5/2020.

2. Căn cứ Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo Phạm Trung T: 01 áo sơ mi màu đen có hoa văn ở cổ áo có chữ Give, 01 quần đùi jean ngắn màu đen có chữ DSOUARED, 01 khẩu trang vải sọc caro đen vàng trắng và 01 đôi dép màu đỏ có 3 sọc trắng có chữ “Adidas”.

- Trả lại cho bà Nguyễn Thị L: 01 xe môtô hai bánh nhãn hiệu Honda Vario, màu bạc đen, biển số 59N3-AAA.BB và 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6s Plus, màu xám bạc.

- Trả lại cho bị cáo Giang Chí P: 01 áo màu xanh, 01 quần jean màu xanh đen và 01 đôi dép màu đỏ.

- Trả lại cho bà Đặng Như Y: 01 điện thoại di động hiệu Oppo A5, màu đen.

- Trả lại cho ông Hàng Đức T1: 01 điện thoại di động Nokia 135, màu đen và số tiền 1.700.000 đồng.

(Theo Lệnh nhập kho vật chứng số 415-36/LNK ngày 21/10/2020 và Giấy nộp tiền ngày 22/10/2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh).

3. Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015:

các điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án:

Án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo phải chịu là 200.000 đồng.

4. Căn cứ vào Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Các bị cáo; người đại diện hợp pháp của các bị cáo; người bào chữa cho các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

186
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 533/2020/HS-ST ngày 30/12/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:533/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;