TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 532/2023/HS-ST NGÀY 28/09/2023 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 28 tháng 9 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đ xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 514/2023/TLST-HS ngày 07 tháng 9 năm 2023, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 524/2023/QĐXXST-HS, ngày 12/9/2023 đối với các bị cáo:
1. Cao Văn T, sinh năm 1975 tại Bắc Giang. Nơi đăng ký thường trú và cư trú: Số C, tổ B, khu phố B, phường T, thành phố B, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Không. Trình độ học vấn: 7/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Phật giáo. Quốc tịch: Việt Nam. Con ông Cao Văn C, sinh năm 1952 (đã chết) và bà Nguyễn Thị D, sinh năm 1954. Bị cáo có vợ tên Ngô Thị H, sinh năm 1976 và có 01 con sinh năm 2002. Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt, giam giữ từ ngày 27/02/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh Đ. Bị cáo có mặt.
2. Vũ Tiến H1, sinh năm 1982 tại Nam Định. Nơi đăng ký thường trú và cư trú hiện nay: E, khu A, tổ B, ấp T, xã H 3, huyện T, tỉnh Đ. Nghề nghiệp: Bảo vệ. Trình độ học vấn: 9/12. Dân tộc: Kinh. Giới tính: Nam. Tôn giáo: Thiên chúa giáo. Con ông Vũ Công B (đã chết) và bà Nguyễn Thị D1, sinh năm 1948. Bị cáo chưa có vợ con. Tiền án, tiền sự sự: Không.
Nhân thân:
- Bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đ xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, phải nộp lại 60.000 đồng tịch su sung quỹ nhà nước, 50.000 đồng tiến án phí hình sự sơ thẩm, theo Bản án số 50/HSST, ngày 10/6/2004;
- Bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đ xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” và 09 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản”, 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, theo Bản án số 166/2009/HSST, ngày 22/10/2009;
- Bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom, tỉnh Đ xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, bồi thường cho chị Nguyễn Thị Minh T1 số tiền 3.450.000 đồng, 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm, 200.000 đồng án phí phần bồi thường dân sự, theo Bản án số 239/2012/HSST, ngày 30/12/2012.
Bị cáo đã chấp hành xong các bản án nêu trên. Bị bắt, giam giữ từ ngày 27/02/2023 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố B, tỉnh Đ. Bị cáo có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Cao Văn T và Vũ Tiến H1 là người sử dụng trái phép chất ma túy. Do T và H1 đều điều trị nghiện bằng thuốc thay thế “Methadone” tại Cơ sở 1 thuộc phường T, thành phố B, nên quen biết nhau.
Để có ma tuý sử dụng và bán kiếm lời. Ngày 22/2/2023, T đến khu vực nghĩa địa thuộc phường A, thành phố B, gặp một người đàn ông (không rõ lai lịch) mua 02 gói ma tuý (heroin) và 02 gói ma túy (đá), giá 500.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T sử dụng hết 01 gói ma tuý (heroin) và 01 gói ma túy (đá), còn 01 gói ma tuý (heroin) và 01 gói ma túy (đá), T cất giấu mục đích bán cho người nghiện.
Ngày 24/02/2023 T nói H1 đi bán ma tuý cùng T, nếu bán ma tuý được, T sẽ bao Hậu ăn uống, H1 đồng ý.
Lúc 09h00’ ngày 24/02/2023 T đến khu vực quận H, thành phố c gặp một thanh niên (không rõ nhân thân, lai lịch) mua 01 cục ma túy (heroin) giá 6.400.000 đồng và 01 gói ma túy (đá) giá 1.000.000 đồng. Sau khi mua được ma túy T chia cục (heroin) thành 73 (bảy mươi ba) phần nhỏ cho vào đoạn ống hút màu trắng, chia ma tuý (đá) thành 21 (hai mươi mốt) phần nhỏ cho vào đoạn ống hút màu vàng và màu cam, rồi hàn kín 02 đầu lại, mục đích để sử dụng và cùng H1 bán cho người nghiện.
T và H1 bán ma tuý với cách thức: Người nghiện điện thoại cho T theo số 0328322xxx hoặc điện thoại cho H1 theo số 0965511xxx hỏi mua ma túy, T và H1 nghe điện thoại, đồng ý và hẹn địa điểm để giao dịch, sau đó T đem ma tuý đến điểm hẹn bán cho người nghiện, hoặc T đưa ma tuý cho H1 đem đến điểm hẹn bán cho người nghiện, hoặc T và H1 cùng đem ma tuý đến điểm hẹn bán cho người nghiện.
Quá trình điều tra xác định T và H1 đã bán ma túy cho những người nghiện sau:
* Đối với T đã thực hiện hành vi bán ma túy như sau:
Lần 1: Lúc 09h00’ ngày 22/02/2023, Châu Hoài T2 điện thoại cho T, hỏi mua 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) giá 180.000 đồng, T đồng ý và hẹn T2 đến khu vực tổ B, khu phố B, phường T, thành phố B để giao dịch. Sau đó T đến điểm hẹn gặp T2, T2 đưa T 180.000 đồng, T nhận tiền rồi lấy 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) bán cho T2.
Lần 2: Lúc 16h00’ ngày 26/02/2023 T2 điện thoại cho T hỏi mua 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) giá 180.000 đồng, T đồng ý và hẹn T2 đến khu vực tổ B, khu phố B, phường T, thành phố B để giao dịch. Sau đó T đến điểm hẹn gặp T2, T2 đưa T 180.000 đồng, T nhận tiền rồi lấy 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) bán cho T2.
* Đối với H1 đã thực hiện hành vi bán ma túy như sau:
Ngày 23/02/2023 tại ngã ba T, huyện T, H1 bán cho Lê Phát T3 Lợi 01 gói ma túy trị giá 100.000 đồng và ngày 25/02/2023 tại ngã ba T huyện T, H1 tiếp tục bán cho Lê Phát T3 Lợi 01 gói ma túy trị giá 100.000 đồng.
* Đối với T và H1 đã cùng nhau thực hiện hành vi bán ma túy như sau:
Lần 1: Khoảng 13h00’, ngày 24/02/2023 T2 điện thoại cho T hỏi mua 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) giá 180.000 đồng, T đồng ý và hẹn T2 đến khu vực cây xăng B1 thuộc phường T, thành phố B để giao dịch. Sau đó T đưa ma tuý cho H1, H1 nhận 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) đem đến điểm hẹn bán cho T2 giá 180.000 đồng, tiền bán ma tuý được H1 đem về đưa cho T.
Lần 2: Lúc 7h30’ ngày 26/02/2023 T2 điện thoại cho T hỏi mua 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá), giá 180.000 đồng, T đồng ý và hẹn T2 đến khu vực uống “Methadone” thuộc phường T, thành phố B, để giao dịch. Sau đó H1 điều khiển xe mô tô biển số 67G1-xxxxx chở T đến điểm hẹn gặp T2, T2 đưa T 180.000 đồng, T nhận tiền rồi lấy 01 gói ma túy (heroin) và 01 gói ma túy (đá) bán cho T2.
Lần 3: Lúc 6h15’ ngày 27/02/2023 H1 điều khiển xe mô tô biển số 67G1- xxxxx đến nhà T tại: khu phố B, phường T, chở T đi uống “Methadone”, sau khi uống “Methadone”. Lúc 7h00’ ngày 27/02/2023 Lê Phát Toàn L, sinh năm: 1990, địa chỉ: số B, tổ I, khu phố D, thị trấn V, huyện V, điện thoại cho H1 theo số 0965.511.xxx, nói muốn đổi 01 con gà mái trọng lượng 0,8kg, để mua 01 gói (heroin), H1 nói với T, T đồng ý và hẹn L đến bên hông cây xăng “Đ” thuộc tổ E, khu phố C, phố T, thành phố B để giao dịch. Sau đó H1 chở T đến điểm hẹn gặp L, L đưa H1 01 con gà mái, H1 nhận con gà treo bên hông bên phải gác baga xe mô tô, còn T đang bán ma tuý cho L, nhưng chưa kịp bán thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện T đang cầm trên tay phải 62 (sáu mươi hai) ống hút màu trắng chứa ma túy (heroin), 13 (mười ba) ống hút màu vàng và 02 (hai) ống hút màu cam chứa ma túy (đá), nên lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với T và H1 về hành vi mua bán trái phép chất ma túy.
Tại Cơ quan điều tra Cao Văn T đã khai nhận hành vi phạm tội như trên. Đối với Vũ Tiến H1 lời khai ngày 27/02/2023 tại Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Đ và Cơ quan CSĐT Công an thành phố B, H1 khai nhận hành vi phạm tội như trên. Nhưng sau đó H1 thay đổi lời khai không thừa nhận đã thực hiện hành vi phạm tôi.
Về vật chứng thu giữ gồm:
- 62 (sáu mươi hai) đoạn ống hút chứa ma túy, khối lượng: 2,9734gam (loại Heroin).
- 15 (mười lăm) đoạn ống hút chứa chứa ma túy, khối lượng: 0,8568gam (loại Methamphetamine).
- 01 (một) điện thoại di động Mobell màu đỏ, số IMEI1: 970201600141832, IMEI2: 970202600141830; thuê bao số 0328322xxx và 0395494xxx của Cao Văn T.
- 01 (một) con gà mái có trọng lượng khoảng 0,8kg, do gà đã chết nên đã tiêu hủy.
- Số tiền: 1.180.000 đồng của Cao Văn T.
- 01 (một) điện thoại di động hiệu Oppo, số IMEI1: 865566043520158, IMEI2: 865566043520141, thuê bao số 0965511xxx của H1.
- Số tiền: 3.500.000đ (ba triệu năm trăm ngàn đồng) của Vũ Tiến H1.
- 01 (một) xe mô tô Honda Wave biển số 67G1-xxxxx; số khung: LHJC5220CV720170, số máy: JC52E5207988 là phương tiện mà T và H1 sử dụng để đi bán ma túy. Qua kết quả xác minh chủ sở hữu là ông Nguyễn Văn K có địa chỉ thôn V, xã V, huyện A, tỉnh An Giang đứng tên chủ sở hữu, xe có số khung: RLCS5C6H0EY082945, số máy: 5C6H082950, không trùng khớp với xe thu giữ. Ủy thác điều tra cho cơ quan điều tra Công an huyện A, tỉnh An Giang tiến hành hoạt động điều tra xác minh, cho kết quả ông Nguyễn Văn K không còn ở tại đại chỉ trên đi đâu không rồ, nên chưa làm việc được với ông K. Xác minh theo số khung: LHJC5220CV720170, số máy: JC52E5207988 cho kết quả: Không tìm thấy dữ liệu. Do đó xe Honda Wave biển số 67G1-xxxxx tách ra, làm rõ xử lý sau.
Tại kết luận giám định ma tuý số 404/KL-KTHS ngày 03/3/2023 của Phòng K1 công an tỉnh Đ kết luận:
+ Mẫu tinh thể màu trắng (ký hiệu M1) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng: 0,8568gam, loại Methamphetamine.
+ Mẫu bột màu trắng (ký hiệu M2) được niêm phong gửi đến giám định là ma túy có khối lượng: 2,9734gam, loại heroin.
Tại Cáo trạng số 518/CT-VKSBH, ngày 05/9/2023, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B truy tố các bị cáo về tội: “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự. Sau khi công bố Cáo trạng, kiểm sát viên trình bày do sơ suất trong đánh máy nên đã ghi phần số đối số tiền H1 bán ma túy cho Lê Phát T3 Lợi vào ngày 23 và 25/02/2023 là 100.000 đồng nhưng phần chữ lại ghi là một trăm triệu đồng, xác định số tiền chính xác là một trăm nghìn đồng; xác định lại số tiền thu giữ của T là 1.180.000 đồng, số tiền thu giữ của H1 là 3.500.000 đồng.
Tại phiên toà, Kiểm sát viên trình bày lời luận tội, nêu tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với hành vi phạm tội của bị cáo gây ra. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo T từ 08 năm 06 tháng đến 09 năm tù; xử phạt bị cáo H1 từ 08 năm đến 08 năm 06 tháng tù. về án phí: Mỗi bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận gì đối với lời luận tội của đại diện Viện Kiểm sát.
Trong lời nói sau cùng, các bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho các bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng:
Đối với hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố B, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về hành vi thực hiện tội phạm của các bị cáo:
Xét thấy, lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa phù hợp với lời khai của người làm chứng và các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận:
Từ ngày 22/02/2023 đến ngày 26/02/2023 Cao Văn T thực hiện hành vi bán ma túy cho Châu Hoài T2 02 lần; ngày 23/02/2023 đến ngày 25/02/2023 Vũ Tiến H1 bán ma túy cho Lê Phát T3 lợi 02; ngày 24/02/2023 đến ngày 26/02/2023, H1 và T cùng bàn ma túy cho Châu Hoài T2 02 lần. Đến khoảng 07 giờ 30 phút ngày 27/02/2023 H1 và T cùng bàn ma túy cho Lê Phát Toàn L thì bị Cơ quan công an bắt quả tang, thu giữ trên người T 62 đoạn hút chứa chất bột màu trắng là ma túy, khối lượng: 2,9734gam, loại H2 và 15 đoạn hút chứa chứa tinh thể màu trắng là ma túy, khối lượng 0,8568gam, loại Methamphetamine được T và H1 khai tàng trữ để sử dụng và bán cho con nghiện.
Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, là nguyên nhân làm phát sinh các loại tệ nạn và tội phạm khác, đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Xét về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa Cao Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Đối với Vũ Tiến H1 thì ban đầu tại cơ quan điều tra, H1 đã khai nhận hành vi phạm tội, nhưng sau đó thay đổi lời khai, không thừa nhận hành vi phạm tội. Tuy nhiên tại phiên tòa, sau khi được giải thích pháp luật, H1 đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, ăn năn hối cải. Do đó áp dụng tình tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải theo điểm điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự với bị cáo T và cả bị cáo H1, thể hiện sự khoan hồng, chính sách nhân đạo của pháp luật. Ngoài ra, các bị cáo trình độ học vấn thấp, là nạn nhân của ma túy, bị cáo H1 đang điều trị bệnh HIV là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo, thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật, tạo điều kiện để bị cáo cải tạo trở thành công dân sống có ích cho xã hội.
[4] Về tính chất, mức độ thực hiện hành vi phạm tội của từng bị cáo và quyết định hình phạt:
Căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi thực hiện tội phạm của từng bị cáo; căn cứ vào nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cần có mức án nghiêm, tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của các bị cáo, cần thiết phải cách ly các bị cáo với xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.
Các bị cáo là những người thực hiện tội phạm trong vai trò đồng phạm giản đơn, bị cáo T là người trực tiếp đi mua ma túy về phân ra để bán lại cho người nghiện; bị cáo T và bị cáo H1 là người trực tiếp, do đó bị cáo T có mức án cao hơn bị cáo H1.
[5] Vật chứng của vụ án:
- Tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định đựng trong 01 gói niêm phong số 404 ngày 03/3/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Đ;
- Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước:
+ 01 điện thoại di động Mobell màu đỏ, số IMEI1: 970201600141832, IMEI2: 970202600141830; thuê bao số 0328322xxx và 0395494xxx của T là điện thoại sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy;
+ 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số IMEI1: 865566043520158, IMEI2: 865566043520141, thuê bao số 0965511xxx của H1, là điện thoại sử dụng vào việc liên hệ mua bán trái phép chất ma túy;
+ Số tiền 1.180.000 đồng của T là tiền mua bán ma túy;
- Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.500.000 đồng của H1 để đảm bảo thi hành án.
[6] Về các vấn đề khác liên quan đến vụ án:
Đối với hành vi mua ma túy để sử dụng của Lê Phát Toàn L, L chưa nhận ma túy nên không có căn cứ xử lý hình sự đối với L. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với Châu Hoài T2 là người mua ma túy của H1 và T để sử dụng, T2 đã sử dụng hết ma túy nên không có căn cứ xử lý hình sự T2 về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Cơ quan cảnh sát điều tra đã ra quyết định xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy.
Đối với đối tượng bán ma túy cho Cao Văn T không rõ nhân thân lai lịch nên tiếp tục điều tra xử lý sau.
Đối với xe Honda Wave biển số 67G1-xxxxx do chưa xác định được chủ sở hữu, nên Cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[7] Về án phí: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc các bị cáo phải nộp.
[8] Quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điềm b khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 58 Bộ luật Hình sự:
Xử phạt bị cáo Cao Văn T 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù về tội về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn phạt tù tính từ ngày giam giữ 27/02/2023.
Xử phạt bị cáo Vũ Tiến H1 08 (tám) năm tù về tội về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn phạt tù tính từ ngày giam giữ 27/02/2023.
- Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:
+ Tịch thu tiêu hủy số ma tuý còn lại sau giám định đựng trong 01 gói niêm phong số 404 ngày 03/3/2023 của Phòng K1 Công an tỉnh Đ;
+Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động Mobell màu đỏ, số IMEI1: 970201600141832, IMEI2: 970202600141830; thuê bao số 0328322xxx và 0395494xxx của Cao Văn T là điện thoại sử dụng vào việc liên lạc mua bán ma túy;
+Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại di động hiệu Oppo, số IMEI1: 865566043520158, IMEI2: 865566043520141, thuê bao số 0965511xxx của Vũ Tiến H1, là điện thoại sử dụng vào việc liên hệ mua bán trái phép chất ma túy;
+ Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.180.000 (một triệu một trăm tám mươi nghìn) đồng của Cao Văn T là tiền mua bán ma túy;
+Tiếp tục tạm giữ số tiền 3.500.000 (ba triệu năm trăm nghìn) đồng của Vũ Tiến H1 để đảm bảo thi hành án.
Theo Biên bản giao nhật vật chứng, tài sản ngày 26/9/2023 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B và Giấy nộp tiền mặt số 22142482, ngày 27/9/2023 nộp số tiền 4.680.000 (bốn triệu sáu trăm tám mươi nghìn) đồng vào số tài khoản 39490103660200000 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B mở tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Đ.
- Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Cao Văn T và bị cáo Vũ Tiến H1 mỗi bị cáo phải nộp số tiền 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
- Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 532/2023/HS-ST về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 532/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 28/09/2023 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về