Bản án 532/2019/HNGĐ-PT ngày 07/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 532/2019/HNGĐ-PT NGÀY 07/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 22/2019/TLPT-HNGĐ ngày 14 tháng 01 năm 2019 về tranh chấp ly hôn.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 1412/2018/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức bị kháng cáo.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 2233/2019/QĐ-PT ngày 20 tháng 5 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị T; cư trú tại: cư trú tại: Số A, đường B, phường C, Quận D, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn: Ông Đinh Thái H, Luật sư Công ty Luật M, thuộc Đoàn luật sư tỉnh Tây Ninh, địa chỉ: Số M, đường N, Thành phố Q, tỉnh Tây Ninh (có mặt).

2. Bị đơn: Ông Đặng Văn M; cư trú tại: Số E, đường G, phường H, Quận I, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Lê Bình P, Luật sư Công ty Luật TNHH P, thuộc Đoàn luật sư thành phố Hồ Chí Minh, địa chỉ: Số L, Phường Y, Quận Z, Thành phố Hồ Chí Minh (có mặt).

3. Người kháng cáo: Bị đơn – ông Đặng Văn M.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn xin ly hôn đề ngày 24/7/2017 và lời khai của nguyên đơn – bà Nguyễn Thị T thì:

Bà và ông Đặng Văn M đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường Đ, tỉnh B, Thành phố Hồ Chí Minh, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 09, ngày 15/01/2014. Bà và Ông M thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm về cách sống và do Ông M có quan hệ tình cảm với nhiều người phụ nữ, giữa Bà và Ông M không có sự yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, chia sẻ lẫn nhau trong cuộc sống. Bà và Ông M đã ly thân hơn một năm. Do tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên Bà khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho Bà được ly hôn với ông Đặng Văn M.

Về con chung: Bà và ông Đặng Văn M không có con chung nên Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà và ông Đặng Văn M không có tài sản chung, nợ chung nên Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo lời khai của bị đơn – ông Đặng Văn M thì: Ông thống nhất với trình bày của Bà T về việc đăng ký kết hôn, con chung, tài sản chung và nợ chung. Ông nhận thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, trong cuộc sống vợ chồng có những mâu thuẫn nhỏ, có thể bỏ qua được. Ông vẫn còn yêu thương Bà T, nên Ông không đồng ý ly hôn với Bà T.

Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 1412/2018/HNGĐ-ST ngày 26 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức quyết định:

“Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn với ông Đặng Văn M.

- Về con chung: Ông Đặng Văn M và bà Nguyễn Thị T đều xác định không có nên Hội đồng xét xử không giải quyết vấn đề con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự có quyền yêu cầu giải quyết trong vụ án khác về việc chia tài sản chung và nợ chung sau ly hôn.”

Ngoài ra, Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm còn quyết định về án phí, quyền yêu cầu thi hành án và kháng cáo của các đương sự.

Ngày 29/11/2018, bị đơn – ông Đặng Văn M kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, nội dung kháng cáo: Ông còn yêu thương vợ, giữa vợ chồng Ông không phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Bà T đang bị bệnh, cần Ông quan tâm, chăm sóc. Ông cũng vừa bị đứt dây thần kinh trụ tay phải và cần sự hỗ trợ của vợ. Tòa án cấp sơ thẩm không tạo điều kiện cho vợ chồng Ông hàn gắn tình cảm, không khách quan khi giải quyết vụ án và không xem xét giải quyết những vấn đề về tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của Ông và Bà T. Ông không chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà T.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị đơn – ông Đặng Văn M trình bày: Ông không đồng ý ly hôn do còn thương yêu Bà T, vợ chồng còn khả năng hàn gắn.

Nguyên đơn – bà Nguyễn Thị T trình bày: Đề nghị Tòa án giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn – ông Đinh Thái H trình bày: Mâu thuẫn vợ chồng rất trầm trọng, không có khả năng hàn gắn. Bà T luôn sống trong tình trạng rất sợ hãi Ông M, cuộc sống không có nụ cười, không có hy vọng. Ông M thừa nhận có ngoại tình, Bà T đã lớn tuổi nên có mong muốn chấm dứt cuộc hôn nhân đầy nước mắt, sống những năm tháng thanh thản cuối đời. Ông M đưa ra yêu cầu phản tố sau thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm mở phiên họp công khai tài liệu, chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết yêu cầu phản tố của Ông M là đúng quy định pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Ông M, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn – ông Lê Bình P trình bày: Trong thời gian giải quyết sơ thẩm, do Bà T không mở cửa cho Ông M vào nhà nên Ông M phải có thời gian đi thu thập chứng cứ để phản tố, việc Tòa án không chấp nhận yêu cầu của Ông M là không đảm bảo tính khách quan. Về hôn nhân: Bà T và Ông M có những mâu thuẫn trong cuộc sống, nhưng đó chỉ là những mâu thuẫn bình thường, không phải là mâu thuẫn trầm trọng. Vợ chồng là người đi cùng, chăm sóc nhau, vợ chồng không phù hợp quan điểm sống, không phù hợp tính cách không phải là căn cứ để ly hôn.

Về tài sản: Sau khi ly hôn lần thứ nhất, Ông M có đem tài sản riêng của mình vào và tạo lập tài sản chung với Bà T trong thời kỳ hôn nhân nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của Ông M, hủy bản án sơ thẩm và cho hai ông bà đoàn tụ.

Kiểm sát viên phát biểu:

Về thời hạn kháng cáo: Đơn kháng cáo của ông Đặng Văn M còn trong thời hạn pháp luật quy định, nên có cơ sở để chấp nhận về hình thức.

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; đương sự thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Tình trạng vợ chồng đã mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được, Ông M đề nghị đoàn tụ nhưng không đưa ra được biện pháp hàn gắn vợ chồng nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Bà T là có căn cứ. Ông M đưa ra yêu cầu phản tố, chia tài sản chung và nợ chung sau thời điểm Tòa án mở phiên họp công khai tài liệu, chứng cứ và hòa giải, nên Tòa án cấp sơ thẩm không giải quyết yêu cầu phản tố của Ông M là đúng quy định pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của Ông M, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ Biên bản tống đạt ngày 05/11/2018, Tòa án nhân dân quận Thủ Đức đã tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập đến tham gia phiên tòa lúc 14 giờ 00 phút ngày 26/11/2018 cho ông Đặng Văn M. Căn cứ Biên bản xác minh lúc 09 giờ 00 phút ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân quận Thủ Đức tại trụ sở Bệnh viện đa khoa khu vực X và Giấy ra viện ngày 26/11/2018 của ông Đặng Văn M do Bệnh viện đa khoa khu vực X cấp thì ông Đặng Văn M tự ý bỏ về từ ngày 22/11/2018, đến 09 giờ 00 phút sáng ngày 26/11/2018 không quay lại bệnh viện nên bác sỹ tổng kết cho xuất viện lúc 09 giờ 00 phút sáng ngày 26/11/2018. Do Ông M đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt không có lý do, nên Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vắng mặt Ông M là đúng quy định pháp luật.

[2] Tại Bản tự khai đề ngày 17/8/2018, Biên bản hòa giải ngày 19/8/2018, Ông M xác định không có nợ chung và chưa có ý kiến gì liên quan đến vấn đề tài sản chung, sẽ yêu cầu Tòa án giải quyết sau. Đến ngày 15/10/2018 (sau khi Tòa án cấp sơ thẩm đã đưa vụ án ra xét xử lần 1), Ông M nộp đơn yêu cầu Tòa án chia tài sản chung của vợ chồng và ngày 23/11/2018, Ông M nộp đơn yêu cầu chia nợ chung là sau thời điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nên Tòa án cấp sơ thẩm không thụ lý giải quyết là đúng quy định tại Điều 200 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

[3] Về hôn nhân: Căn cứ Giấy chứng nhận kết hôn số 09, ngày 15/01/2014 do Ủy ban nhân dân phường Đ, tỉnh B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp thì quan hệ hôn nhân giữa ông Đặng Văn M và bà Nguyễn Thị T là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, giữa Ông M và Bà T phát sinh mâu thuẫn kéo dài do bất đồng về tính cách, quan điểm sống, Ông M có hành vi bạo lực gia đình, Bà T nhận thấy không an tâm về sự an toàn cho tính mạng, sức khỏe của mình. Bà T và Ông M đã ly thân từ năm 2018 đến nay, giữa Ông M và Bà T không có sự tôn trọng, tin tưởng, thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau là vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng quy định tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nên Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà T là phù hợp quy định tại Khoản 1, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Ông M và Bà T đều xác định không có con chung, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Các đương sự có quyền khởi kiện vụ án khác để yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn theo quy định của pháp luật.

[6] Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của ông Đặng Văn M.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 5, Khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, thì do nguyên đơn – bà Nguyễn Thị T có yêu cầu ly hôn nên Bà T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

[8] Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ vào Khoản 1, Điều 148 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Khoản 1, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, do Tòa án cấp phúc thẩm giữ nguyên bản án sơ thẩm nên người kháng cáo – ông Đặng Văn M phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Điều 147; Khoản 1, Điều 148, Điều 200 và Khoản 1, Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 19 và Khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Khoản 5 Điều 27 và Khoản 1, Điều 29 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Giữ nguyên Bản án sơ thẩm:

1.1. Về hôn nhân: Bà Nguyễn Thị T được ly hôn ông Đặng Văn M.

1.2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Nguyễn Thị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0022399 ngày 13/8/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Nguyễn Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Đặng Văn M phải chịu án phí dân sự phúc thẩm là 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0022968 ngày 05/12/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự quận Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Đặng Văn M đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Thi hành án tại cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

228
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 532/2019/HNGĐ-PT ngày 07/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:532/2019/HNGĐ-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;