Bản án 53/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 30/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 30 tháng 11 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 53/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2020/QĐXXST-HS ngày 23 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Thị N, sinh năm 1959 tại Thành phố Hồ Chí Minh Nơi cư trú: Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh Chỗ ở: Phường A, Quận E, Thành phố Hồ Chí Minh Nghề nghiệp: Mua bán; Trình độ học vấn: Không biết chữ

Dân tộc: kinh; giới tính: nữ; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam Con ông: Nguyễn Văn Y (chết) và bà Võ Thị T (chết)

Chồng: Huỳnh X, sinh năm 1943 (chết)

Con: có 03 người, lớn nhất sinh năm 1977, nhỏ nhất sinh năm 1982 Tiền sự, tiền án: Không Nhân thân:

+ Ngày 29/7/1997 bị Tòa án nhân dân huyện Trảng Bàng, tỉnh Tây Ninh xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 18 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích.

+ Ngày 19/11/2004 bị Tòa án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích.

+ Ngày 22/5/2006 bị Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã được xóa án tích.

Tạm giữ: ngày 02/11/2020; tạm giam: ngày 05/11/2020

Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Đồng Tháp

Có mặt tại phiên tòa.

- Bị hại:

Bà Nguyễn Thị T1, sinh năm 1940 (cổ mặt)

Nơi cư trú: Khóm I, Phường u, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp

- Người làm chứng:

1- Chị Bạch Thị T2, sinh năm 1980 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp M, xã D, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp

2- Chị Nguyễn Thị Kim N1, sinh năm 1990 (vắng mặt)

Nơi cư trú: Khóm V, Phường c, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp

3- Anh Huỳnh Tấn P, sinh năm 1976 (có mặt)

Nơi cư trú: Khóm I, Phường U, thành phố S, tỉnh Đồng Tháp

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 02/11/2020, Nguyễn Thị N đến quầy số 57 chợ nông sản thành phố S tọa lạc Khóm H, Phường L1, thành phố S để mua dưa hấu, sau đó mua chai nước sâm do bà Nguyễn Thị T1 bán.

Trong lúc mua nước, lợi dụng lúc bà T1 sơ hở, N đã dùng tay móc túi của bà T1 lấy cọc tiền ra cầm trên tay thì bị bà T1 phát hiện chụp lấy tay của N đồng thời truy hô, N sợ nên buông cọc tiền ra rớt xuống đất.

Lúc này, N bị bắt giữ và trình báo cho Công an Phường 2, thành phố Sa Đéc đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, đồng thời kiểm tra số tiền N chiếm đoạt của bà T1 là 12.000.000 đồng, trong đó gồm:

- 22 tờ tiền mệnh giá mỗi tờ là 500.000 đồng;

- 02 tờ tiền mệnh giá mỗi tờ là 200.000 đồng;

- 03 tờ tiền mệnh giá mỗi tờ là 100.000 đồng;

- 06 tờ tiền mệnh giá mỗi tờ là 50.000 đồng.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã trao trả số tiền 12.000.000 đồng cho bà Nguyễn Thị T1 nhận xong.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 55/QĐ-VKSTPSĐ ngày 20/11/2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sa Đéc đã truy tố bị cáo Nguyễn Thị N về tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Sa Đéc trong phần tranh luận đã giữ nguyên Quyết định truy tố và đề nghị:

Áp dụng Khoản 1 Điều 173, Điểm S Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điểm i Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị N về tội “Trộm cắp tài sản” với mức án từ 09 tháng tù đến 01 năm tù.

Ngoài ra, Viện kiểm sát còn đề nghị về xử lý vật chứng theo quy định pháp luật.

Bị cáo nhận tội, không có ý kiến bào chữa, tranh luận, xin giảm nhẹ hình phạt.

Bị hại không có ý kiến tranh luận.

Người làm chứng không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: Cơ quan Cảnh sát điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong vụ án đã thực hiện đúng thẩm quyền, đúng trình tự, thủ tục tố tụng của Bộ luật Tố tụng hình sự trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có ý kiến, khiếu nại gì về hành vi, quyết định của các cơ quan tố tụng và người tiến hành tố tụng nên các chứng cứ, tài liệu thu thập được trong hồ sơ vụ án là hợp pháp, đúng theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo phù hợp với biên bản phạm tội quả tang được lập lúc 12 giờ 45 phút ngày 02/11/2020 của Công an Phường 2, thành phố Sa Đéc, phù hợp với lời khai của bị hại, người làm chứng và các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Qua đó đủ cơ sở xác định: Vào khoảng 12 giờ 20 phút ngày 02/11/2020 tại quầy số 57 chợ nông sản thành phố S tọa lạc Khóm H, Phường L1, thành phố S, Nguyễn Thị N thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt số tiền 12.000.000 đồng của bà Nguyễn Thị T1 nhằm mục đích tư lợi cá nhân.

Hành vi của bị cáo là vi phạm pháp luật, nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo là người đã thành niên nên bị cáo nhận thức được quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ. Hành vi xâm phạm trái pháp luật tài sản của người khác, dù bằng hình thức nào, đều vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý. Thế nhưng, do bản tính tham lam, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản nên bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tiền của bị hại.

Bị cáo phạm tội với lỗi cố ý, động cơ mục đích tư lợi cá nhân. Thủ đoạn thực hiện tội phạm của bị cáo táo bạo, liều lĩnh: thời điểm phạm tội là vào ban ngày, địa điểm phạm tội là tại quầy số 57 chợ nông sản thành phố S tọa lạc Khóm H, Phường L1, thành phố S nên có rất đông người qua lại mua bán hàng hóa, số tiền để ở trong túi áo của bị hại, nếu chiếm đoạt sẽ dễ bị phát hiện và bị bắt, nhưng bị cáo không sợ sệt, không sợ bị phát hiện. Với bản tính tham lam, xem thường pháp luật, bị cáo đã lợi dụng sự sơ hở của bị hại trong việc quản lý tài sản nên bị cáo đã lén lút chiếm đoạt tiền của bị hại.

Bị cáo là phụ nữ, các con của bị cáo đều là người đã thành niên, về nhân thân của bị cáo rất xấu, bị cáo từng 03 lần bị xử phạt cùng về hành vi “Trộm cắp tài sản” đã được xóa án tích. Nếu biết ăn năn hối cải thì bị cáo phải biết rèn luyện phẩm chất đạo đức, cố gắng lao động, làm ăn chân chính để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu bản thân, phụ giúp gia đình và làm tấm gương tốt cho con cháu noi theo. Thế nhưng với bản tính tham lam, xem thường pháp luật, vào ngày 02/11/2020 lợi dụng lúc bà T1 sơ hở nên bị cáo đã lén lút dùng tay móc túi của bà T1 để lấy tiền thì bị bà T1 phát hiện và trình báo cơ quan Công an bắt giữ để rồi một lần nữa đi vào con đường phạm tội.

Từ những phân tích trên cho thấy, hành vi của bị cáo là đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự. Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi của mình.

Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

"1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.

a) ..................................”

[3] Xét thấy, hành vi phạm tội của bị cáo tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi của bị cáo là táo bạo liều lĩnh, thể hiện sự xem thường pháp luật. Bị cáo nhận tội, không tranh luận, không bào chữa. Xét thấy, phát biểu luận tội của Kiểm sát viên tại phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng tính chất, hành vi phạm tội của bị cáo. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử lý nghiêm, bắt bị cáo phải cách ly xã hội một thời gian để giáo dục, cải tạo bị cáo thành công dân tốt, có ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng tài sản của người khác, nhằm răn đe và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội đối với bà T1 là người 80 tuổi thuộc trường hợp phạm tội đối với người đủ 70 tuổi trở lên nên cần áp dụng Điểm i Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự để xem xét trong việc lượng hình đối với bị cáo.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, số tiền bị chiếm đoạt đã được thu hồi và hoàn trả cho bị hại nhận xong, vì vậy cần áp dụng Điểm S Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần mức hình phạt đối với bị cáo.

[6] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 USB có lưu giữ hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của bà T1 cần tiếp tục quản lý để lưu hồ sơ vụ án.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị N là người cao tuổi nên theo quy định pháp luật được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173, Điểm S Khoản 1, Khoản 2 Điều 51, Điểm i Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thị N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị N mức án 09 tháng tù (Chín tháng tù). Thời hạn tù tính từ ngày 02/11/2020 (ngày tạm giữ).

Về trách nhiệm dân s: Đã giải quyết xong.

Về xử lý vật chng: Tiếp tục quản lý 01 USB có lưu giữ hình ảnh bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của bà Nguyễn Thị T1 vào ngày 02/11/2020 để lưu hồ sơ vụ án.

Về án phí: Căn cứ vào Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 12 Nghị quyết về án phí, lệ phí Tòa án năm 2016

Miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Nguyễn Thị N.

Trong hạn 15 ngày kể từ ngày hôm nay tuyên án, bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2020/HS-ST ngày 30/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:53/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Sa Đéc - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;