TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĂN LÃNG, TỈNH LẠNG SƠN
BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN TRÁI PHÉP VŨ KHÍ QUÂN DỤNG
Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 55/2020/TLST- HS, ngày 30 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63 2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 của Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo:
Nguyễn Thiên L, tên gọi khác: Không có; sinh ngày 15 tháng 12 năm 1990 tại xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay: Thôn B, xã V, huyện B, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Thiên chúa giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Đ (đã chết) và bà Trần Thị T; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không có; nhân thân: Bị cáo chưa lần nào bị kết án, xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật; bị cáo bị tạm giữ, tạm giam trong vụ án khác từ ngày 28/3/2020 đến nay; có mặt.
- Người làm chứng:
+ Anh Lành Văn B; có mặt.
+ Chị Dương Thị N; có mặt.
+ Chị Tưởng Thị C; vắng mặt.
+ Chị Đỗ Thị Phương L; vắng mặt.
- Người chứng kiến: Anh Hứa Văn U; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Từ năm 2012 đến cuối năm 2018, bị cáo Nguyễn Thiên L thường xuyên xuất cảnh trái phép sang tỉnh Quảng Đông - Trung Quốc để lao động làm thuê. Tại Trung Quốc, Nguyễn Thiên L quen biết một người phụ nữ tên là N quê ở Hà Nội (Nguyễn Thiên L không biết họ, địa chỉ cụ thể của N), hiện N đang sinh sống tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc, Nguyễn Thiên L và N cho nhau số điện thoại để liên lạc.
Đầu tháng 02/2020, bị cáo Nguyễn Thiên L về quê ăn tết Nguyên đán. Ngày 20/3/2020, Nguyễn Thiên L đi xe khách từ nhà đến tỉnh Thái Nguyên chơi, tại đây Nguyên Thiên L nhắn tin qua Zalo cho N hỏi vay tiền, N nói với Nguyễn Thiên L nếu cần tiền thì đến tỉnh Hưng Yên vận chuyển cho N 01 khẩu súng ngắn K54 mang sang Trung Quốc, N sẽ trả tiền công cho Nguyễn Thiên L 10.000.000 đồng, Nguyễn Thiên L đồng ý. N bảo Nguyễn Thiên L khi nào đi thì thông báo cho N biết để N bảo người giao súng liên lạc với Nguyễn Thiên L. Chiều ngày 21/3/2020, Nguyễn Thiên L bắt xe taxi từ thành phố Thái Nguyên đến tỉnh Hưng Yên, trên đường đi Nguyễn Thiên L nhắn tin qua Zalo thông báo cho N biết, Nguyễn Thiên L đi gần đến tỉnh Hưng Yên thì có một người đàn ông gọi điện cho Nguyên Thiên L hỏi Nguyễn Thiên L có phải là người của N không, Nguyễn Thiên L nói là phải, sau đó người này hướng dẫn Nguyễn Thiên L đi đến ngã ba khu vực gân Trạm thu phí giao thông trên quốc lộ 5 thuộc địa phận tỉnh Hưng Yên, Nguyên Thiên L đứng đợi ở đây khoảng 15 phút thì có 01 người đàn ông đội mũ bảo hiểm, mặt đeo khẩu trang đi xe máy Wave màu đen (không rõ biển kiểm soát) đến chỗ Nguyễn Thiên L hỏi có phải người của N không, Nguyễn Thiên L nói phải, sau đó người đàn ông này gọi điện cho ai đó rồi đưa cho Nguyễn Thiên L 01 túi vải màu xanh, lý mở túi kiểm tra thấy bên trong có 01 khẩu súng ngắn K54, sau đó Nguyễn Thiên L cất túi vải đựng khẩu súng vào trong ba lô của mình, còn người đàn ông đi đâu Nguyễn Thiên L không biết. Sau khi nhận súng xong Nguyên Thiên L đi xe taxi quay trở lại thành phố Thái Nguyên ngủ qua đêm. Chiều ngày 22/3/2020 Nguyễn Thiên L đi xe khách từ thành phố Thái Nguyên đến tỉnh Cao Bằng để xuất cảnh trái phép sang trung Quốc. Sáng ngày 23/3/2020 Nguyên Thiên L gọi điện Zalo thông báo cho N biết là đã nhận được khẩu súng K54, N bảo Nguyễn Thiên L đến tỉnh Lạng Sơn để nhận ma túy vận chuyển sang Trung Quốc cho N với giá tiền công vận chuyển 30.000.000 đồng/01 bánh ma túy, Nguyên Thiên L đồng ý. N cho Nguyễn Thiên L biết khi nào có người phụ nữ tên T gọi điện thì đến nhận ma túy tại thành phố Lạng Sơn, N sẽ nhắn tin số điện thoại của Nguyễn Thiên L cho người giao ma túy để hai người liên lạc với nhau. Ngày 24/3/2020 tại thành phố Lạng Sơn, Nguyễn Thiên L đã gặp T và nhận 12 bánh ma túy để vận chuyển sang Trung Quốc cho N.
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 24/3/2020, bị cáo Nguyễn Thiên L cùng một số người đi xe taxi đến khu vực biên giới xã T, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn để xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc. Khi đi đến khu vực thôn N, xã T, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn thì bị Tổ công tác đồn Biên phòng N, tỉnh Lạng Sơn phát hiện bắt quả tang các đối tượng xuất cảnh trái phép sang Trung Quốc, thu giữ tại hiện trường 01 khẩu súng K54 và 12 bánh ma túy, Nguyễn Thiên L lợi dụng sơ hở, trời tối đã bỏ trốn, đến ngày 28/3/2020 bị bắt tại tỉnh Cao Bằng khi đang tìm cách trốn sang Trung Quốc.
Vật chứng thu giữ: 01 khẩu súng ngắn K54 bằng kim loại màu đen, trên thân có dập số “7629 ****” cùng 01 hộp tiếp đạn. Hiện nay đang tạm giao cho Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Lạng Sơn bảo quản theo quy định.
Tại bản Kết luận giám định số 132/KLGĐ-PC09 ngày 31/3/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Lạng Sơn kết luận: Khẩu súng ngắn cùng hộp tiếp đạn gửi giám định là súng quân dụng K54. Hiện tại, khẩu súng này vẫn sử dụng để bắn được.
Tại bản Cáo trạng số 69/CT-VKS- P2, ngày 30/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã truy tố bị cáo Nguyễn Thiên L về tội Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng theo điểm b khoản 2 Điều 304 của Bộ luật Hình sự để xét xử tại Tòa án nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn.
Ngày 30/7/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn ban hành Quyết định số 25/QĐ-VKS-P2 phân công Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo Nguyễn Thiên L khai nhận hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng như bản Cáo trạng nêu; bị cáo thừa nhận hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng là vi phạm pháp luật, nhưng do hám lợi với tiền công vận chuyển được trả cao vẫn cố ý thực hiện.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thiên L phạm tội Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng. Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 304, Điều 38, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên L hình phạt từ 05 (năm) năm đến 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù giam.
Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự, khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị bàn giao số vũ khí quân dụng thu giữ trong vụ án cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn quản lý và xử lý theo quy định.
Không đề nghị áp dụng hình phạt bổ sung vì bị cáo không có tài sản.
Tại phần thủ tục tranh luận, bị cáo Nguyễn Thiên L không có ý kiến tranh luận. Lời nói sau cùng bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo phù hợp với tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được trong quá trình điều tra vụ án, đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, có căn cứ xác định: Vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 24/3/2020, tại khu vực biên giới thuộc thôn N, xã T, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn bị cáo Nguyễn Thiên L có hành vi vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng 01 khẩu súng K54 đem sang Quảng Đông - Trung Quốc giao cho một người phụ nữ tên N hiện đang sinh sống tại Quảng Đông- Trung Quốc, mục đích để nhận tiền công vận chuyển 10.000.000 đồng. Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do hám lợi vẫn cố ý thực hiện tội phạm.
[3] Với hành vi trên, việc truy tố của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đối với bị cáo là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Thiên L phạm tội Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng với tình tiết định khung “Vận chuyển qua biên giới”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 304 của Bộ luật Hình sự năm 2015.
[4] Đánh giá tính chất vụ án, vai trò, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân đối với bị cáo như sau:
[5] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, vì đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước đối với vũ khí quân dụng. Việc bị cáo tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng gây mất an ninh trật tự xã hội.
[6] Về nhân thân: Bị cáo không có tiền án, tiền sự; chưa lần nào bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật, được xác định là người có nhân thân tốt.
[7] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.
[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra vụ án và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội đã thực hiện nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
[9] Từ đánh giá trên thấy cần xử phạt cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.
[10] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo chưa thu lợi từ hành vi phạm tội; tại Biên bản xác minh ngày 13/5/2020 thì bị cáo hiện tại không có tài sản gì thuộc quyền sở hữu, nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 304 của Bộ luật Hình sự.
[11] Về tang vật vụ án: Hiện nay, vật chứng gồm 01 khẩu súng ngắn K54 bằng kim loại màu đen, trên thân có dập số “7629 ****” cùng 01 hộp tiếp đạn được tạm giao cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn quản lý. Do đó, tịch thu toàn bộ vật chứng và giao vũ khí quân dụng thu giữ trong vụ án cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn quản lý và xử lý theo quy định.
[12] Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội, bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm sung quỹ Nhà nước theo khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
[13] Đối với các đối tượng có liên quan trong vụ án tên là N và người đàn ông giao khẩu súng K54 cho bị cáo Nguyễn Thiên L ở tỉnh Hưng Yên, yêu cầu Cơ quan điều tra Công an tỉnh Lạng Sơn tiếp tục điều tra làm rõ, khi có đủ căn cứ sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.
[14] Đối với các đối tượng Nguyễn Văn N (là anh trai ruột của bị cáo), Lành Văn B, Tưởng Thị C, Dương Thị N, Đỗ Thị Phương L không biết việc bị cáo tàng trữ số vũ khí quân dụng trên, nên không xử lý.
[15] Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử, nên được chấp nhận.
[16] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 304, Điều 38, Điều 47, Điều 50, điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Căn cứ khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 1, 2 Điều 135; khoản 2 Điều 136; các Điều 331, 332, 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự;
Căn cứ Điều 64, Điều 66, Điều 69, Điều 70 của Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ;
Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Thiên L phạm tội Vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng.
2. Hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Thiên L 05 (năm) năm tù giam, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 28/3/2020.
3. Xử lý vật chứng: Tịch thu và giao vũ khí quân dụng thu giữ trong vụ án cho Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn quản lý và xử lý theo quy định, gồm: 01 (một) khẩu súng ngắn K54 bằng kim loại mau đen, trên thân có dập so “7629 ****” (đủ bộ phận).
(Các vật chứng trên được lưu giữ tại Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn theo Biên bản giao nhận vật chứng ngày 05/5/2020 giữa Công an tỉnh và Phỏng kỹ thuật Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Lạng Sơn).
4. Án phí: Buộc bị cáo Nguyễn Thiên L phải chịu án phí hình sư sơ thẩm 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng nộp ngân sách Nhà nước.
5. Quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo. Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.
Bản án 53/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội vận chuyển trái phép vũ khí quân dụng
Số hiệu: | 53/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Văn Lãng - Lạng Sơn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 20/08/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về