TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH HÀ, TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 18/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 18 tháng 11 năm 2020 tại trụ sở TAND huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 53/2020/TLST-HS ngày 05/10/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:
Vũ Khắc H, sinh năm 1991 tại xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vũ Khắc T và con bà Ngô Thị N; Tiền án: Bản án số 03/HSST ngày 21/1/2011, TAND huyện Thanh Hà xử phạt H 36 tháng tù về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Bản án số 56/HSST ngày 10/12/2014, TAND huyện Thanh Hà xử phạt H 27 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có; bản án số 103/HSST ngày 21/11/2017, TAND huyện Thanh Hà xử phạt H 33 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản ; Tiền sự: chưa; nhân thân : Bản án số 08/HSST ngày 04/3/2009, TAND huyện Thanh Hà xử phạt H 12 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, 06 tháng tù về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, tổng hợp hình phạt cả hai tội là 18 tháng tù.
Bị cáo bị tạm giam từ ngày 03/09/2020 đến nay tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương; có mặt tại phiên tòa.
- Bị hại: Anh Tăng Bá H, sinh năm 1970; nơi cư trú: Thôn L, xã T1, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Xin xử vắng mặt.
- Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Văn C, sinh năm 1989; ĐKHK: Thôn T, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
Đang tạm giam trong trại tạm giam Công an tỉnh Hải Dương theo Lệnh bắt bị can để tạm giam số 16 ngày 23/9/2020 của cơ quan cảnh sát điều tra- Công an huyện Thanh Hà. Xin xử vắng mặt.
- Người làm chứng:
1. Anh Ngô Đức K, sinh năm 1974 ;
Nơi cư trú: Thôn Q, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương. Có mặt.
2. Chị Tăng Thị Bích N, sinh năm 1976 ; nơi cư trú: Thôn L, xã T1, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
3. Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1973 ; nơi cư trú: Thôn L, xã T1, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương.
4. Ông Trần Văn T, sinh năm 1950 ; nơi cư trú: Thôn A, xã N, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương.
Đều vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ ngày 22/8/2020, Ngô Văn C, sinh năm 1989 ; địa chỉ ở thôn T, xã T, huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương gọi điện thoại rủ Vũ Khắc H đi trộm cắp tài sản, H đồng ý. Khoảng 01giờ ngày 23/8/2020, C điều khiển xe máy nhãn hiệu Weina, BKS 34K3-1325 chở H đi tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Khi đi đến khu vực ngã ba trường tiểu học T thuộc thôn L, xã T, huyện Thanh Hà, H và C bàn bạc, H đứng ngoài cảnh giới, C đi vào bên trong tìm xem nhà ai sơ hở sẽ vào trộm cắp tài sản. Đến cổng nhà anh Tăng Bá H, sinh năm 1970, C thấy cổng khóa trèo tường bao vào trong và quan sát thấy cửa chính khóa, đi dọc hành lang bên phải nhà quan sát cửa phụ phía cuối nhà mở, theo lối cửa phụ đi vào bên trong nhà. C quan sát thấy trên giường ngủ để 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230, màn hình TFT, số IMEI1 : 356935093900741, số IMEI2: 356935095900749, C lấy chiếc điện thoại trên cho vào túi quần. Tiếp theo, C đi đến móc treo quần áo, lục tìm trong túi quần thấy có 01 chiếc ví da màu nâu dạng ví gấp và lấy chiếc ví cho vào túi quần, C theo lối cũ đã vào đi ra ngoài. Khi đi ra ngoài đường, C kiểm tra ví thấy có 1.200.000đ và chứng minh thư nhân dân mang tên Tăng Bá H. C rút ra 1.150.000đ, để lại 50.000đ trong ví, nói với H đã trộm cắp được 01 chiếc điện thoại và 01 chiếc ví da bên trong có tiền, C đưa cho H 50.000đ, H cầm số tiền này, điện thoại C sử dụng. Sau đó, C và H lấy xe điều khiển đi về nhà. Anh H phát hiện mất tài sản đến công an trình báo.
Kết luận định giá tài sản số 24/KL- HĐGTS ngày 28/08/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Thanh Hà kết luận: 01 chiếc điện thoại di động Nokia 230, màn hình TFT 2,8’’ 65.536 màu, trị giá 550.000đ; 01 chiếc ví da mầu nâu dạng ví gấp, kích thước khi gấp vào dài 12,5cm, rộng 9,5cm, bên trong có 03 ngăn, 01 ngăn có khóa, trị giá 100.000đ. Tổng giá trị tài sản là 650.000đ.
Tại bản cáo trạng số 53/CT-VKS ngày 02/10/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo Vũ Khắc H về tội Trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Bị cáo H khai nhận hành vi phạm tội như cáo trạng đã mô tả.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Vũ Khắc H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s, h khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo H từ 09 đến 12 tháng tù, thời hạn tính từ ngày 03/9/2020; về hình phạt bổ sung không áp dụng. Về vật chứng: Áp dụng khoản 1 Điều 47 BLHS, khoản 2 Điều 106 BLTTHS. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Mastel màu vàng, số IMEI 1:
358483301197360; số IMEI2: 3584833011722357 và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 105 mầu xanh, số IMEI: 353681082951807; tịch thu tiêu hủy sim số 0854437030 và sim số 0384317813 bị cáo và C sử dụng làm phương tiện phạm tội. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự , Luật phí và lệ phí năm 2015, Nghị quyết 326/2016/UBNTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Thanh Hà, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 01 giờ ngày 23/8/2020, tại nhà ở anh Tăng Bá H ở thôn L, xã T, huyện Thanh Hà, Vũ Khắc H và Ngô Văn C đã lợi dụng sơ hở của chủ sở hữu tài sản lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia 230, 01 ví da mầu nâu bên trong có 1.200.000đ và 01 chứng minh thư nhân dân, tổng trị giá tài sản là 1.850.000đ. Do bị cáo H đã bị kết án về tội Trộm cắp tài sản chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội nên hành vi phạm tội của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản theo điểm b khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố ý thực hiện. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thanh Hà, tỉnh Hải Dương truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
[3] Trong vụ án này, Ngô Văn C là người khởi xướng, rủ bị cáo H trộm cắp bị cáo đồng ý. Bị cáo là người giúp sức, giữ nhiệm vụ cảnh giới cho Ngô Văn C vào lấy tài sản.
Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản hợp pháp của công dân được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Bị cáo nhiều lần bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản chưa được xóa án tích nhưng vẫn không lấy đó làm bài học, điều đó thể hiện ý thức coi thường pháp luật của bị cáo. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt nghiêm khắc, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tách dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa.
[4] Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng.
Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo đã thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra, giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới mức định lượng khoản 1 Điều 173 BLHS nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn quy định tại điểm h khoản 1 Điều 51 BLHS.
[5] Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có thu nhập ổn định, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu bị cáo và C bồi thường nên không đặt ra vấn đề xem xét giải quyết về trách nhiệm dân sự.
[7] Về vật chứng: 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Mastel màu vàng, số IMEI1: 358483301197360; số IMEI2: 3584833011722357 và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 105 mầu xanh, số IMEI: 353681082951807 bị cáo và C sử dụng là phương tiện phạm tội cần tịch thu sung quỹ Nhà nước. Sim số 0854437030 và sim số 0384317813 bị cáo và C sử dụng là phương tiện phạm tội không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Đối với hành vi của Ngô Văn C, trị giá tài sản mà C và bị cáo H chiếm đoạt là 1.850.000đ, Công an huyện Thanh Hà đã ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với C là phù hợp.
[9] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 173, điểm s, h khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 17, Điều 58, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 106, Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/QH 14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Tuyên bố: Bị cáo Vũ Khắc H phạm tội "Trộm cắp tài sản".
2. Xử phạt bị cáo Vũ Khắc H 10 (mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 03/09/2020.
3. Về vật chứng: Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu Mastel màu vàng, số IMEI1: 358483301197360; số IMEI2: 3584833011722357 và 01 chiếc điện thoại nhãn hiệu NOKIA 105 mầu xanh, số IMEI:
353681082951807; tịch thu tiêu hủy 01 sim số 0854437030 và 01 sim số 0384317813 là phương tiện bị cáo và C sử dụng vào việc phạm tội.
4. Về án phí: Bị cáo Vũ Khắc H phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Bị hại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án 53/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 53/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thanh Hà - Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 18/11/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về