Bản án 53/2020/HS-ST ngày 01/06/2020 về tội cố ý gây thương tích

 TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN S, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 53/2020/HS-ST NGÀY 01/06/2020 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 01 tháng 6 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 01/2020/TLST-HS ngày 06/01/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2020/QĐXXST-HS ngày 14/02/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 09/2020/HSST-QĐ ngày 28/02/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 13/2020/HSST-QĐ ngày 20/3/2020; Thông báo về việc thay đổi lịch xét xử vụ án số 265/TB-TA ngày 01/4/2020, số 367/TB-TA ngày 24/4/2020; Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2020/HSST-QĐ ngày 14/5/2020 đối với bị cáo:

Dương Văn N, sinh ngày 06/3/2001, tại S, Tuyên Quang.

Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Thôn N, xã N, huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 09/12; Dân tộc: Sán Dìu; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Dương Văn T (đã chết) và bà Lê Thị T, sinh năm 1976; Vợ, con: Chưa có; Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Tại bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội xử phạt Dương Văn N 03 năm 06 tháng tù về tội Buôn bán hàng cấm (án có hiệu lực pháp luật).

Bị cáo đang bị giam giữ trong vụ án khác tại Trại tạm giam số 01 Công an thành phố Hà Nội. Có mặt

Bị hại: Anh Nguyễn Văn N1, sinh năm 2000.Trú tại: Thôn Ba Nhà, xã S1, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

+ Anh Lưu Quốc C, sinh năm 2002. Trú tại: Thôn Hoàng La 2, xã N, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, Vắng mặt.

+ Anh Trương Xuân L, sinh năm 2000. Trú tại: Thôn Ninh Quý, xã N, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt.

+ Anh Nguyễn Chí D, sinh năm 2002. Trú tại thôn Hoàng Tân 2, xã N, huyện S, tỉnh Tuyên Quang, vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

+ Anh Nguyễn Đức M, sinh ngày 17/8/2000. Trú tại thôn Quyết Thắng, xã S1, huyện S, tỉnh Tuyên Quang. Vắng mặt.

Người làm chứng: Ông Vũ Đức H, bà Trần Thị V, chị Vũ Thị N. Đều vắng mặt (có đơn đề nghị xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 23 giờ ngày 15/5/2018, Nguyễn Văn N1 và Nguyễn Đức M ngồi ở quán giải khát Hải Vương tại thôn L, xã S1, huyện S thì Dương Văn N cầm theo 01 gậy rút 03 khúc bằng sắt dài 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm, thân gậy sơn màu trắng; Lưu Quốc C, Nguyễn Chí D và Trương Xuân L cầm theo 01 gậy rút 03 khúc bằng sắt dài 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm, thân gậy sơn màu vàng, đến quán giải khát Hải Vương (do trước đó N1 dùng tay đánh 02 nhát vào đầu C nên C gọi điện báo lại sự việc cho N và cùng nhau đi tìm C). Khi thấy C ngồi ở quán giải khát Hải Vương thì N cầm gậy rút bằng kim loại đi đến và vụt 01 nhát trúng vào lưng của M, thấy vậy N1 đứng dậy chạy vào bếp của quán giải khát lấy 01 đoạn cán chổi bằng gỗ dài khoảng 01m rồi đi ra chỗ N đứng và nói “Thích đánh nhau thì vào đây”, lúc này N dùng tay phải cầm gậy rút vụt 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng đỉnh đầu bên phải của N1, N1 dùng gậy gỗ vụt 01 nhát trúng vào người của N, sau đó N dùng gậy rút bằng sắt vụt 2 đến 3 nhát trúng vào lưng và tay của N1, L dùng 01 gậy rút bằng sắt vụt một đến hai nhát trúng vào lưng của N1, C dùng tay chân đấm đá nhiều nhát vào lưng của N1, bị đánh N1 bỏ chạy ra khỏi quán thì được mọi người can ngăn và đưa đi điều trị tại Bệnh viện đa khoa S, tỉnh Tuyên Quang.

Tại Bản kết luận pháp y về thương tích số 118/2018/TgT ngày 19/6/2018 của Trung tâm pháp y tỉnh Tuyên Quang. Kết luận thương tích của Nguyễn Văn N1: Sẹo vùng thái dương đỉnh bên phải, trong chân tóc 03cm có sẹo kích thước (4 x 0,5)cm, sẹo màu hồng, mềm, phẳng, hướng từ trên xuống dưới tổn hại 03% sức khỏe; Vùng lưng có 05 vết tím thâm mờ, những vết này có hai bờ song song màu gần như đồng nhất với màu da, vùng cơ delta cánh tay trái có 01 vết tím thâm mờ nằm ngang, có hai bờ song song màu gần như đồng nhất với màu da sẽ khỏi không để lại sẹo, tổn hại 0% sức khỏe. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 03%. Sẹo vùng thái dương phải do vật tầy tác động trực tiếp gây nên; Sưng nề đỏ, đau ở vùng lưng, tay trái do vật tầy tròn tác động trực tiếp gây nên.

Về dân sự: Trước khi mở phiên tòa, bị cáo và bị hại đã tự nguyện thỏa thuận và thống nhất bị cáo Dương Văn N phải bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bị hại Nguyễn Văn N1, số tiền 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng). Đề nghị Tòa án ghi nhận trong Bản án về thỏa thuận bồi thường giữa hai bên.

Từ nội dung trên, Cáo trạng số 02/CT-VKSND ngày 02 tháng 01 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện S đã truy tố bị cáo Dương Văn N về tội “Cố ý gây thương tích”, quy định tại điểm a,i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố giữ nguyên quyết định truy tố và khẳng định hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a, i, khoản 1 Điều 134, các điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 55, 56, 90, 91 Bộ luật Hình sự, xử phạt Dương Văn N từ 06 (sáu) đến 09 (chín) tháng tù. Tổng hợp hình phạt với bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội.

Ngoài ra, Đại diện Viện kiểm sát còn đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận việc thỏa thuận bồi thường trách nhiệm dân sự, nghĩa vụ chịu án phí và tuyên quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Bị hại Nguyễn Văn N1 trình bày lời buộc tội: Nhất trí với luận tội của đại diện Viện kiểm sát, đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Kết thúc phần tranh tụng bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, tỏ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về nội dung vụ án: Tại phiên tòa, bị cáo Dương Văn N khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Ngoài lời khai nhận tội của bị cáo, hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng: Lời khai của bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, Kết luận giám định pháp y, biên bản xác minh hiện trường và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do vậy Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 23 giờ ngày 15/5/2018, tại quán giải khát Hải Vương thuộc thôn Lõng Khu, xã S1, huyện S, Dương Văn N, sinh ngày 06/3/2001, trú tại thôn N, xã N, huyện S đã vô cớ dùng tay phải cầm 01 gậy rút 03 khúc bằng sắt, chiều dài khi rút là 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm, thân gậy sơn màu trắng (là hung khí nguy hiểm) vụt 01 nhát theo hướng từ trên xuống dưới trúng vào vùng đỉnh đầu bên phải của Nguyễn Văn N1, sinh ngày 23/6/2000, trú tại thôn Ba Nhà, xã S1, huyện S. Hậu quả: Nguyễn Văn N1 bị tổn hại 03% sức khỏe. Hành vi cố ý gây thương tích của Dương Văn N thuộc trường hợp dùng hung khí nguy hiểm và có tính chất côn đồ.

Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm a, i khoản 1 Điều 134 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân huyện S, tỉnh Tuyên Quang truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng là có căn cứ pháp luật.

[2] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

- Tình tiết tăng nặng: Không có.

- Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, cần áp dụng khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[3] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử:

Qua xem xét, nghiên cứu hồ sơ và diễn biến tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: Quá trình điều tra và truy tố, xét xử, Điều tra viên, Kiểm sát viên đã tuân thủ đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan. Khởi tố, điều tra, thu thập chứng cứ, truy tố đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật. Các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử là hợp pháp.

[4] Về mức án Viện kiểm sát đề nghị:

Hành vi phạm tội của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, làm mất trật tự trị an tại địa phương, trực tiếp xâm hại đến quyền được bảo hộ về sức khoẻ của con người. Hành vi của bị cáo là cố ý, thể hiện sự coi thường pháp luật, Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tại Trại giam trong một thời hạn nhất định nhằm giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho xã hội và phòng ngừa tội phạm chung.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội đã xử phạt bị cáo Dương Văn N 03 năm 06 tháng tù về tội Buôn bán hàng cấm, bản án đã có hiệu lực pháp luật, do vậy cần tổng hợp hình phạt, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án.

[5] Về trách nhiệm dân sự:

Trước khi mở phiên tòa, bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong về bồi thường dân sự, cụ thể: Bị cáo Dương Văn N phải bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bị hại Nguyễn Văn N1, số tiền 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng). Xét thỏa thuận nêu trên giữa bị cáo với bị hại là tự nguyện, đúng quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử ghi nhận trong Bản án.

[6] Về vật chứng của vụ án: Qua trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện S thu giữ: 01 (một) gậy rút 03 khúc bằng sắt, chiều dài khi rút là 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm, thân gậy sơn màu vàng, là công cụ phương tiện phạm tội, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[7] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm; do bị cáo và bị hại đã thỏa thuận xong về bồi thường dân sự trước khi mở phiên tòa nên bị cáo không phải chịu án phí dân sự có giá ngạch đối với khoản tiền bồi thường dân sự; bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

[8] Đối với các vấn đề khác:

- Đối với hành vi Dương Văn N dùng 01 gậy rút gậy rút 03 khúc bằng sắt dài 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm vụt 01 nhát trúng vào lưng của Nguyễn Đức M nhưng do không để lại thương tích nên không có căn cứ để xử lý.

- Đối với hành vi Dương Văn N, Trương Xuân L dùng gậy rút 03 khúc bằng sắt dài 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm; Lưu Quốc c dùng tay đấm, vụt vào lưng của Nguyễn Văn N1 nhưng tỷ lệ tổn thương cơ thể = 0% nên không có căn cứ để xử lý.

- Đối với hành vi Nguyễn Văn N1 dùng 01 đoạn cán chổi bằng gỗ dài khoảng 01m vụt vào người Dương Văn N. Ngày 21/11/2019, N có đơn từ chối giám định sức khỏe nên không có căn cứ để xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a, i khoản 1 Điều 134; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 55, 56, 90, 91 Bộ luật Hình sự.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Dương Văn N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Dương Văn N 06 (sáu) tháng tù. Tổng hợp với hình phạt 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 179/2019/HSST ngày 30/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 08/8/2019).

3. Về trách nhiệm dân sự: Áp dụng Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, 585, 590 và Điều 357, 468 Bộ luật dân sự năm 2015.

Ghi nhận sự thỏa thuận giữa bị cáo và bị hại như sau: Bị cáo Dương Văn N phải bồi thường thiệt hại sức khỏe cho bị hại Nguyễn Văn N1, số tiền 15.000.000đ (Mười lăm triệu đồng).

Khoản tiền bồi thường kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và bị hại có đơn đề nghị thi hành án, nếu bị cáo chậm thanh toán thì hàng tháng phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự năm 2015.

4. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gậy rút 03 khúc bằng sắt, chiều dài khi rút là 62cm, đường kính tay cầm là 2,5cm, thân gậy sơn màu vàng.

(Tình trạng vật chứng như Biên bản giao nhận vật chứng ngày 07/01/2020 giữa Cơ quan điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện S).

5. Về án phí và quyền kháng cáo:

Căn cứ Điều 136, 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án:

Bị cáo Dương Văn N phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, bị hại có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (01/6/2020).

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2020/HS-ST ngày 01/06/2020 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:53/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 01/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;