Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

 BẢN ÁN 53/2020/HNGĐ-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

 Ngày 09 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 127/2020/TLST- HNGĐ ngày 22/6/2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 62/2020/QĐXX- ST ngày 12/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 56/2020/QĐST-HNGĐ ngày 27/8/2020 giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Trần Thị H, sinh năm 1992 Địa chỉ: Thôn L, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Anh Phạm Văn H1, sinh năm 1991.

Địa chỉ: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình.

( Chị H có mặt; anh H1 vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn, quá trình tố tụng tại Tòa án và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị H trình bày: Chị H và anh H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Tiền H, tỉnh Thái Bình ngày 25/10/2011. Sau khi kết hôn chị H và anh H1 chung sống hạnh phúc được 04 năm thì mâu thuẫn do tính tình không hợp, anh H1 không tu chí làm ăn, không quan tâm đến vợ con. Do mâu thuẫn căng thẳng nên đầu năm 2015 chị H đi làm ăn và vợ chồng sống ly thân từ đầu năm 2015 đến cuối năm 2018 anh H1 đến nói chuyện với chị cho anh H1 cơ hội để vợ chồng trở về đoàn tụ. Vì con còn nhỏ nên chị H đã quay trở về chung sống cùng anh H1 nhưng khi về chung sống với nhau được thời gian ngắn thì chị và anh H1 lại tiếp tục xảy ra mâu thuẫn. Khi chị mang thai con thứ hai được hơn hai tháng thì chị đưa con lớn về nhà bố mẹ đẻ chị ở thôn L, xã T sinh sống. Từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay chị H và anh H1 sống ly thân. Khi chị H làm đơn xin ly hôn anh H1, chị đã gặp anh H1 để nói chuyện, anh H1 đã đống ý ký đơn ly hôn và viết đơn xin xử vắng mặt để chị H nộp cho Tòa án. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải giải quyết cho chị H được ly hôn với anh H1.

Về con chung: Chị H và anh H1 có hai con chung là Phạm Thị Thanh H, sinh ngày 02/6/2012 và Phạm Gia H, sinh ngày 08/9/2019. Từ khi vợ chồng sống ly thân cả hai con chung đều sống cùng chị H. Sau khi ly hôn chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung, chị H không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H.

Về tài sản chung, công nợ: Chị H không đề nghị Tòa án giải quyết. Bị đơn là anh H1 vắng mặt tại phiên tòa và không có lời khai.

Tạị biên bản lấy lời khai ngày 29/6/2020, ông Phạm Văn H2 là bố đẻ anh Phạm Văn H1 trình bày: Anh H1 và chị H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Thịnh, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chị H, anh H1 về chung sống tại thôn Thiện Châu, xã Nam Thịnh. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh H1 là do tính cách không hợp nhau. Hiện tại chị H anh H1 sống ly thân, anh H1 đi lao động ở tỉnh ngoài nhưng vẫn thường xuyên liên lạc về nhà qua điện thoại. Anh H1 có biết việc chị H xin ly hôn anh H1 nhưng do anh H1 bận công việc nên không về Tòa án làm việc được. Về con chung: Anh H1 và chị H có hai con chung là Phạm Thị Thanh H, sinh năm 2012 và Phạm Gia H, sinh năm 2019. Về tài sản: Chị H và anh H1 không có tài sản chung.

Tại biên bản xác minh ngày 07/8/2020, Ủy ban nhân dân xã T cung cấp như sau: Anh Phạm Văn H1 và chị Trần Thị H có hộ khẩu thường trú tại Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nghiêm túc các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ, đúng thời hạn cho các đương sự. Đối với nguyên đơn đã chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, bị đơn bị đơn không đến Tòa án làm việc, không tham gia phiên tòa, chưa thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho chị Trần Thị H được ly hôn anh Phạm Văn H1; về con chung: Giao con Phạm Thị Thanh H, sinh ngày 02/6/2012 và Phạm Gia H, sinh ngày 08/9/2019 cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết; về tài sản chung: Không giải quyết; về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa và phát biểu của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố H Hải, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” giữa chị Trần Thị H và anh Phạm Văn H1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ vào khoản 3 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn.

[2]. Về nội dung:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị H và anh Phạm Văn H1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 25/10/2011. Tại thời điểm kết hôn, chị H và anh H1 đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị H và anh H1 chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, từ tháng 3 năm 2019 cho đến nay chị H và anh H1 không chung sống cùng nhau, quan hệ vợ chồng không còn tồn tại trên thực tế. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, chị H vẫn đề nghị Tòa án giải quyết cho chị H được ly hôn anh H1 vì tình cảm vợ chồng không còn. Bị đơn là anh H1 đã được Tòa án giao, gửi Thông báo thụ lý vụ án, thông báo phiên hòa giải nhưng anh H1 không đến Tòa án làm việc để thể hiện quan điểm của anh H1 về việc chị H xin ly hôn anh H1. Điều đó chứng tỏ hôn nhân của chị H và anh H1 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp chấp nhận yêu cầu của chị H, giải quyết cho chị H được ly hôn với anh H1 là phù hợp với quy định tại điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2]. Về con chung: Chị H và anh H1 có hai con chung là Phạm Thị Thanh H, sinh ngày 02/6/2012 và Phạm Gia H, sinh ngày 08/9/2019. Chị H có nguyện vọng xin được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu anh H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H. Xét thấy, anh H1 hiện tại không có mặt tại địa phương, mặt khác từ khi chị H và anh H1 không chung sống cùng nhau thì cả hai con chung của chị H và anh H1 do chị H trực tiếp nuôi dưỡng. Cháu Hằng trên 07 tuổi có nguyện vọng xin được ở với mẹ. Vì vậy, để tạo điều kiện cho sinh hoạt và việc học tập ổn định của con chung của chị H và anh H1. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung Phạm Thị Thanh H và Phạm Gia H là phù hợp với quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết

[2.4]. Về án phí: Chị Trần Thị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5, khoản 6 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị H được ly hôn với anh Phạm Văn H1.

2/ Về con chung: Giao cho chị Trần Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục hai con chung Phạm Thị Thanh H, sinh ngày 02/6/2012 và Phạm Gia H, sinh ngày 08/9/2019. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Anh Phạm Văn H1 có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không giải quyết.

4/ Về án phí: Chị Trần Thị H phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) chị H đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0009590 ngày 22/6/2020.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (09/9/2020).

Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

 Bản án 53/2020/HNGĐ-ST ngày 09/09/2020 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:53/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 09/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;