Bản án 53/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B - TỈNH TÂY NINH

BẢN ÁN 53/2019/HS-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Tây Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 55/2019/TLST- HS ngày 20 tháng 9 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 10 năm 2019 đối với bị cáo:

Lê Anh K (tên gọi khác: B), sinh năm: 1991, tại tỉnh L; Nơi đăng ký nhân khầu thường trú: Thôn 3, xã L, thành phố B, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Nhân viên xuất nhập khẩu; trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: kinh; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn H và bà Nguyễn Thị Bích T; vợ, con: chưa có; tiền án: không có; tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 06 tháng 8 năm 2019 đến nay. Bị cáo có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 16 giờ 00 phút ngày 06-8-2019, phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Tây Ninh phối hợp cùng Công an huyện B kiểm tra nhà cho thuê (không có tên) thuộc ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh phát hiện Lê Anh K cất giấu 01 bịch nylon màu trắng được hàn kín bên trong chứa tinh thể rắn màu trắng nghi là ma túy nên tiến hành lập biên bản quả tang, tạm giữ người và tang vật để xử lý.

Quá trình điều tra, K khai nhận: Do có nhu cầu sử dụng ma túy nên vào khoảng 14 giờ ngày 06-8-2019, K điện thoại cho Nguyễn Ngọc G mua một bịch ma túy với số tiền 600.000 đồng, G đồng ý và sau đó, G đến nhà trọ của K tại ấp T, xã L, huyện B, tỉnh Tây Ninh để giao ma túy. Sau khi nhận ma túy xong, K cất giấu tại phòng ngủ. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì bị kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Kết luận giám định số 1143/KL-KTHS ngày 08-8-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch ny lon màu trắng hàn kín, ký hiệu M, gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,0145 gam.

Kết quả thu giữ và xử lý vật chứng:

Các vật chứng được thu giữ hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện B đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09-10-2019 gồm:

- 01 (một) gói niêm phong vụ số 1143/KL-KTHS;

- 01 (một) bình nhựa màu trắng, có gắn 01 ống nhựa màu trắng và 01 ống thủy tinh (là dụng cụ sử dụng ma túy);

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen. loại X1, số Imei1: 352862/05/322665/2, đã qua sử dụng.

- 01 (một) ví da màu nâu.

- Tiền Việt Nam 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng) Lê Anh K không có tài sản nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh không kê biên tài sản.

Đi với Nguyễn Ngọc G là người bán ma túy cho Lê Anh K, G còn bán ma túy cho nhiều đối tượng khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra, làm rõ trong vụ án khác.

Đi với hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của Lê Anh K, Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã xử phạt hành chính.

Tại phiên toà, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu.

Tại bản cáo trạng số: 59/CT-VKSBC ngày 20 tháng 9 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố Lê Anh K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo Lê Anh K về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Lê Anh K từ 12 (mười hai) tháng đến 15 (mười lăm) tháng tù. Miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật.

Bị cáo nói lời nói sau cùng: Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội của bị cáo. Bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi của bị cáo thể hiện: Ngày 06-8-2019, K điện thoại cho Nguyễn Ngọc G mua một bịch ma túy với số tiền 600.000 đồng. Sau khi nhận ma túy xong, K cất giấu tại phòng ngủ. Đến khoảng 16 giờ cùng ngày thì bị kiểm tra, phát hiện và bắt giữ.

Tại kết luận giám định số 1143/KL-KTHS ngày 08-8-2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Tây Ninh kết luận: Mẫu tinh thể màu trắng bên trong 01 bịch ny lon màu trắng hàn kín, ký hiệu M, gửi đến giám định là chất ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 1,0145 gam. Do đó, có đủ căn cứ kết luận hành vi của Lê Anh K đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân huyện B đã truy tố bị cáo Lê Anh K là có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Đối với Nguyễn Ngọc G là người bán ma túy cho Lê Anh K, G còn bán ma túy cho nhiều đối tượng khác nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện B, tỉnh Tây Ninh đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can để điều tra, làm rõ trong vụ án khác.

[4] Hành vi phạm tội của bị cáo K là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Việc tàng trữ ma túy để sử dụng của bị cáo là nguy hiểm cho bản thân, gia đình và xã hội. Bởi vì nghiện ma túy sẽ dễ bị thoái hóa nhân cách, rối loạn hành vi, có lối sống buông thả dễ vi phạm pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội là một trong những nguyên nhân gia tăng các tệ nạn xã hội và tội phạm khác. Do đó, cần có mức hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tính răn đe, giáo dục và phòng chống tội phạm.

Khi quyết định hình phạt, có xem xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do đó, cần cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự quy định: “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy bị cáo không có tài sản. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về xử lý vật chứng:

Các vật chứng được thu giữ trong vụ án hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện B đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09-10-2019. Hội đồng xét xử xét thấy:

- Đối với 01 (một) gói niêm phong vụ số 1143/KL-KTHS là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 (một) bình nhựa màu trắng, có gắn 01 ống nhựa màu trắng và 01 ống thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy) là vật chứng không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy;

- Đối với 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại X1, số Imei1: 352862/05/322665/2, đã qua sử dụng, là phương tiện bị cáo dùng để trao đổi mua bán trái phép chất ma túy cần tịch thu sung quỹ Nhà nước;

- Đối với 01 (một) ví da màu nâu; tiền Việt Nam 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng). Đây là tài sản của bị cáo không sử dụng vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo.

[6] Về án phí: Bị cáo Lê Anh K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Anh K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt Lê Anh K 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06 tháng 8 năm 2019.

2. Các biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 47; Điều 48 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) gói niêm phong vụ số 1143/KL-KTHS; 01 (một) bình nhựa màu trắng, có gắn 01 ống nhựa màu trắng và 01 ống thủy tinh (dụng cụ sử dụng ma túy).

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia màu đen, loại X1, số Imei1: 352862/05/322665/2, đã qua sử dụng.

- Trả lại cho bị cáo 01 (một) ví da màu nâu; tiền Việt Nam 250.000 đồng (hai trăm năm mươi nghìn đồng).

Các vật chứng hiện Chi cục thi hành án dân sự huyện B đang giữ theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 09-10-2019.

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135 và Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự bị cáo Lê Anh K phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án hình sự sơ thẩm xử công khai, bị cáo Lê Anh K có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2019/HS-ST ngày 22/10/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bến Cầu - Tây Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;