Bản án 53/2019/HSST ngày 13/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ UÔNG BÍ - TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 53/2019/HSST NGÀY 13/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 13 tháng 5 năm 2019, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 44/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 53/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 4 năm 2019 đối với:

Bị cáo Ngô Trung Đ (tên gọi khác: không), sinh ngày 17 tháng 10 năm 2000 tại Đ, Quảng Ninh. Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: Thôn C, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn D và bà Ngô Thị H; vợ, con: chưa có; tiền án: không; tiền sự: không. Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 31/01/2019, tạm giam từ ngày 06/02/2019, hiện tạm giam tại nhà tạm giữ Công an thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Ngô Đại P, sinh năm 2000. Nơi cư trú: Thôn N, xã Hoàng Q, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Trần Văn T, sinh ngày 10/7/2001. Người đại diện theo pháp luật: Bà Phạm Thị M, sinh năm: 1973. Nơi cư trú: Thôn Nội H, xã H, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt

- Người chứng kiến: Anh Trần Văn Đ, sinh năm 1988. Nơi cư trú: Tổ 5, khu 1, phường Yên T, thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 19 giờ 40 phút, ngày 31/01/2019, Tổ công tác phương án 12, Công an thành phố Uông Bí, làm nhiệm vụ tại tổ 7, khu 1, phường Y, thành phố Uông Bí, tiến hành kiểm tra hành chính đối với Trần Minh T (sinh năm 2001, trú tại xã H, thị xã Đ) điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, biển kiểm soát (BKS): 14Z1-385 chở Ngô Trung Đ phía sau. Quá trình kiểm tra, phát hiện Ngô Trung Đ có cất giấu trong túi quần phía trước bên phải 01 (một) túi nilon màu trắng, bên trong chứa 01(một) gói giấy vệ sinh màu trắng bọc 01 (một) viên nén hình trụ tròn màu trắng, bề mặt in hình chữ “A” nghi là ma túy, nên đã lập biên bản bắt giữ người có hành vi phạm tội quả tang đối với Ngô Trung Đ. Ngoài ra, Tổ công tác còn thu giữ của Đ số tiền: 3.700.000đ (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng); 01 (một) chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 14Z1-385.. Theo lời khai nhận của Ngô Trung Đ tại cơ quan điều tra thì Đ là nhân viên của quán Bar E thuộc phường Yên T, thành phố Uông Bí, trong quá trình dọn dẹp quán Đ nhặt được viên nén trên và biết là ma túy loại “kẹo” (thuốc lắc) nên đã giấu viên thuốc “lắc” trong người mục đích để có ai xin thì cho.

Tại Bản kết luận giám định số 243/GĐMT ngày 02/02/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Mẫu vật gửi giám định (01 viên nén hình trụ tròn màu trắng, trên một mặt có in hình chữ “A” thu giữ của Ngô Trung Đ) là ma túy; Loại: MDMA; Khối lượng 0,333g (Không phẩy ba trăm ba mươi ba gam).

Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSUB ngày 01/4/2019, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí đã truy tố bị cáo Ngô Trung Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Đi với anh Trần Minh T là người đi cùng với Ngô Trung Đ, anh T không biết việc Đ có giấu ma túy trong người nên không xem xét.

Ti phiên tòa:

Bị cáo thừa nhận có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy như tóm tắt nội dung vụ án đã nêu và Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 là đúng người, đúng tội.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ngô Đại P vắng mặt, trong hồ sơ có lời khai thể hiện khoảng 18 giờ 30 phút ngày 31/01/2019, Ngô Trung Đ là người làm cùng đã mượn xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS14Z1-385. của anh để đi ăn tối, sau đó bị công an bắt giữ anh P không biết Đ có hành vi vi phạm pháp luật. Anh P đã nhận lại chiếc xe này và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì thêm (bút lục 76-78, 86).

Người làm chứng anh Trần Văn T, người chứng kiến anh Trần Văn Đ vắng mặt có lời khai thể hiện trong hồ sơ về thời gian, địa điểm, vật chứng thu giữ của vụ án (bút lục 61- 71).

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí thực hành quyền công tố tại phiên tòa giữ nguyên quyết định truy tố như bản Cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

Về hình phạt chính: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Ngô Trung Đ với mức hình phạt từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bị tạm giữ;

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự; điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu tiêu hủy số ma túy thu giữ của bị cáo được hoàn lại sau giám định và trả lại bị cáo số tiền 3.700.000 đồng nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

Bị cáo không tranh luận với nội dung luận tội của Kiểm sát viên và tại lời nói sau cùng, bị cáo nhận thức được hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng: Các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, của Điều tra viên, của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí, của Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thu thập, thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các chứng cứ, tài liệu và hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thu thập, thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh và hình phạt:

2.1 Về tội danh:

Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai xác nhận của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, người chứng kiến, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản khám xét, vật chứng thu giữ của vụ án, kết luận giám định cùng với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 40 phút ngày 31/01/2019, tại tổ 7, khu 1, phường Yên T, thành phố U, tỉnh Quảng Ninh, Ngô Trung Đ có hành vi tàng trữ 0,333g (không phẩy ba trăm ba mươi ba gam) ma túy MDMA mục đích để cho người khác, thì bị lực lượng Công an bắt quả tang.

Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo là cố ý, thuộc trường hợp nghiêm trọng, hành vi đó đã xâm phạm đến chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Do đó, Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Uông Bí truy tố, kết luận về tội danh, hình phạt đối với bị cáo là đúng người đúng tội, có căn cứ pháp luật

2.2 Về hình phạt:

Về hình phạt chính: Xét về tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thấy rằng cần phải có hình phạt nhất định, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để lấy đó làm bài học răn đe, giáo dục riêng đối với bị cáo cũng như để phòng ngừa, đấu tranh tội phạm chung.

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định nên quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[3] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu. Vì vậy, xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave, BKS: 14Z1-385., bị cáo đã mượn của anh Trần Đại P để đi. Qúa trình điều tra xác minh anh P là chủ sở hữu hợp pháp và tài sản không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo nên Cơ quan điều tra Công an thành phố Uông Bí, đã giao trả tài sản này cho anh P theo Quyết định xử lý đồ vật số 47 ngày 18/3/2019.

- Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy thu giữ của bị cáo, được hoàn lại sau giám định số 243/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh là vật chứng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu, tiêu hủy. Đối với 3.700.000đồng (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng) là tài sản của của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại số tiền để đảm bảo thi hành án.

[5] Về trách nhiệm dân sự: anh P đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bị cáo phải bồi thường gì nên không đề cập giải quyết.

[6] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBNTQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Toà án.

[7] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 331, Điều 333 – Bộ luật Tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Ngô Trung Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt: Bị cáo Ngô Trung Đ 12 (mười hai) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 31/01/2019.

2. Về trách nhiệm dân sự: không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

3. Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ:

Áp dụng: khoản 1, điểm a khoản 2 và điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tch thu, tiêu hủy đối với 01 phong bì niêm phong hoàn lại sau giám định số 243/GĐMT của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh.

Trả lại bị cáo 3.700.000đồng (Ba triệu bảy trăm nghìn đồng), nhưng tạm giữ lại số tiền này để đảm bảo thi hành án.

(Tình trạng và đặc điểm của vật chứng được mô tả như Biên bản giao nhận vật chứng, bảng kê tiền tang vật ngày 04 tháng 4 năm 2019 giữa Công an thành phố Uông Bí và Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Uông Bí, tỉnh Quảng Ninh).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; khoản 1 Điều 21, Điểm a khoản 1 Điều 23 Danh mục án phí Toà án của Nghị quyết số 326/2016/ UBNTQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án. Buộc bị cáo Ngô Trung Đ phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà nước.

5. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

187
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2019/HSST ngày 13/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:53/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Uông Bí - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;