Bản án 53/2019/HSST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUẬN CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 53/2019/HSST NGÀY 07/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY  

Ngày 07 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thuận Châu mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 49/2019/HSST, ngày 05-4-2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2019/QĐXXST-HS ngày 23-4-2019 đối với bị cáo:

Quàng Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1990; tại xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản NS, xãBP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: Không; con ông Quàng Văn N; sinh năm 1963 và bà LòThị H, sinh năm: 1963; bị cáo chưa có vợ, con; tiền sự: Không; tiền án: Không; bị cáo bị bắt giam giữ kể từ ngày 06-01-2019, cho đến nay bị cáo cómặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ, ngày 06-01-2019, Tổ công tác Công an xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La làm nhiệm vụ tại khu vực bản NS, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La phát hiện và bắt quả tang: Quàng Văn T, trú tại: Bản NS, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Thu giữ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất bột cục màu trắng nghi làHeroine (T khai làHeroine), cókhối lượng 0,09 gam. Rút toàn bộ 0,09 gam kýhiệu T1 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

- 01 (một) gói nilon màu trắng, bên trong cóchứa 02 viên nén hình trụ tròn màu hồng nghi làma túy tổng hợp (T khai làma túy tổng hợp), cókhối lượng 0,19 gam. Rút toàn bộ 0,19 gam kýhiệu T2 làm mẫu vật gửi giám định chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số: 209/KLMT, ngày 11-01-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La: “ Mẫu gửi giám định kýhiệu T1 làchất ma túy, loại chất Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định T1 là0,09 gam. Mẫu gửi giám định ký hiệu T2 làchất ma túy, loại chất Methamphetamine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định T2 là0,19 gam.

Tổng khối lượng ma túy thu giữ được là: 0,09 gam loại Heroine và0,19 gam loại Methamphetamine”. (Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định).

Tại cơ quan điều tra bị cáo Quàng Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như sau:

Khoảng 08 giờ, ngày 06-01-2019, Quàng Văn T đi xe buýt từ bản NS, xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lên xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng cho bản thân. Khi đến ngã ba bản NQ, xã TM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, T xuống xe đi bộ vào trong bản T, xãTM, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Thái (T không biết tên và địa chỉ cư trú) một lượng ma túy gồm: một gói ma túy gói bằng ni lon màu trắng và 03 viên hồng phiến được gói bằng nilon màu trắng với giá 210.000đ. Sau khi mua được ma túy, T cầm 02 gói ma túy đi vào bụi cây ven đường lấy ra một ít Heroine vàhồng phiến rồi sử dụng, số Heroine và hồng phiến còn lại T dùng nilon màu trắng gói thành hai gói cất giấu vào túi quần đằng sau bên phải T đang mặc, rồi đi bộ ra đường QL6A để đón xe buýt về nhà. Khi T về đến nhà được khoảng 30 phút thì có tổ công tác Công an xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đến để xét nghiệm và kiểm tra ma túy, T đã tự nguyện lấy 02 (hai) gói ma túy cất giấu trong túi quần đằng sau bên phải T đang mặc giao nộp cho tổ công tác. Tổ công tác đã tạm giữ tang vật, bắt giữ T đưa về UBND xã BP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La lập biên bản bắt người phạm tội quả tang về hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy đối với Quàng Văn T. Thu giữ cùng vật chứng như đã nêu.

Bản cáo trạng số: 51/CT-VKS, ngày 04-4-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố bị cáo Quàng Văn T về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La trong phần tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo Quàng Văn T về điều, khoản và tội danh trên.

Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s, điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự:

Xử phạt bị cáo Quàng Văn T mức án từ 12 tháng đến 18 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06-01-2019.

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Quàng Văn T.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tuyên tịch thu tiêu hủy: 02 (một) mảnh nilon màu trắng + 01 (một) vỏ phong bìniêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Miễn toàn bộ án phíHình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn T.

Ý kiến của bị cáo Quàng Văn T: Nhất trí như lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát. Bị cáo đã nhận thức rõ về hành vi phạm tội của mình xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt mức thấp nhất cho bị cáo sớm được trở lại với gia đình và cộng đồng xã hội. Đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Ngày 06-01-2019, Quàng Văn T; trútại: Bản NS, xãBP, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La đã có hành vi tàng trữ trái phép 01(Một) gói bột màu trắng có khối lượng 0,09 gam, qua giám định làma túy, loại chất Heroine và 01(một) gói bên trong có 02 viên hồng phiến có khối lượng là0,19 gam, qua giám định là chất ma túy, loại chất Methamphetamine. Tổng khối lượng 02 (hai) chất ma túy màbị cáo tàng trữ là 0,28 gam. Mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân.

Căn cứ lời khai nhận tội của bị cáo Quàng Văn T tại phiên tòa ngày hôm nay, hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, Biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác cótrong hồ sơ. Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Trên cơ sở đó có đầy đủ điều kiện, đủ căn cứ kết luận bị cáo Quàng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý, tội phạm và hình phạt được quy định điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Như quyết định truy tố và quan điểm luận tội của Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La tại phiên tòa là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự quy định :

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tùtừ 01 năm đến 05 năm:

a)……………………….

i) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng hoặc thể tích của các chất đó tương đương với khối lượng hoặc thể tích chất ma túy quy định tại một trong các điểm từ điểm b đến điểm h khoản này.;

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”.

Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Quàng Văn T, tàng trữ trái phép chất ma tuývới khối lượng không lớn, mục đích tàng trữ để sử dụng cho bản thân. Hành vi của bị cáo xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, làm lây lan phát sinh các tệ nạn ma tuý và những tệ nạn xã hội khác. Là hành vi nguy hiểm cho xã hội gây mất trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Cần vận dụng điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự có mức án phạt tù từ 01 năm đến 05 năm đối với bị cáo Quàng Văn T.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu, tại cơ quan điều tra và tại phiên toà bị cáo Quàng Văn T thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; sau khi tổ công tác đến nhà để kiểm tra ma túy, bị cáo đã tự nguyện giao nộp 02 ( hai) gói ma túy cho tổ công tác, đã tự thú ra hành vi phạm tội của mình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ đối với bị cáo được quy định tại điểm s, điểm r khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

Song nhân thân bị cáo là người nghiện ma túy, nhận thức rõ tác hại của ma tuýnhưng do coi thường pháp luật nên cố tình phạm tội nghiêm trọng. Nay xét thấy cần cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người làm ăn lương thiện có ích cho xãhội. Cần lên một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới đảm bảo tính chất nghiêm minh của pháp luật, giáo dục và phòng ngừa chung. Nhất là công tác phòng chống tội phạm và tội phạm ma tuý trong giai đoạn hiện nay.

Bị cáo Quàng Văn T đang bị tạm giam, nay Hội đồng xét xử xét thấy cần tiếp tục tạm giam bị cáo trong hạn 45 ngày kể từ ngày tuyên án. Vận dụng khoản 1, khoản 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự.

Ngoài hình phạt chính làphạt tùbị cáo Quàng Văn T còn cóthể bị áp dụng hình phạt bổ sung theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự. Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng, không có đủ điều kiện và khả năng thi hành hình phạt bổ sung. Do vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về nguồn gốc số ma túy Quàng Văn T khai mua của một người phụ nữ dân tộc Thái vào ngày 06-01-2019 với giá 210.000đ. Nhưng T không biết tên, tuổi và địa chỉ cụ thể của người phụ nữ dân tộc Thái này ở đâu. Do vậy Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La không có căn cứ để điều tra xử lý.

[2]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều làhợp pháp.

[3]. Về vật chứng vụ án: Đối với 02 (hai) mảnh nilon màu trắng + 01 ( một) vỏ phong bìniêm phong vật chứng ban đầu. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ. Xét không cón giá trị sử dụng cần tuyên tịch thu tiêu hủy. Vận dụng Điều 47 Bộ luật hình sự và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[4]. Về án phí: Gia đình bị cáo Quàng Văn T cógiấy chứng nhận hộ cận nghèo năm 2019. Do vậy Hội đồng xét xử miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn T. Vận dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[5]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

Vìcác lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Quàng Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý.

2. Về hình phạt: Căn cứ điểm i khoản 1 Điều 249, điểm s, điểm r khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Quàng Văn T 16 (mười sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 06-01-2019 ( là ngày bắt giam giữ đối với bị cáo).

3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tiêu hủy: Một phong bì thư niêm phong có viền xanh đỏ, ngoài ghi: Vật chứng nhập kho vụ Quàng Văn T. Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 06-01-2019 + 02 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bìniêm phong vật chứng ban đầu.

4. Về Án phí: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14; Ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.Miễn toàn bộ án phí Hình sự sơ thẩm cho bị cáo Quàng Văn T.

5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Quàng Văn T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

172
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2019/HSST ngày 07/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:53/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;