Bản án 53/2017/HSST ngày 07/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM ĐẢO, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 53/2017/HSST NGÀY 07/11/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 07 tháng 11 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2017/HSST ngày 07 tháng 9 năm 2017 đối với bị cáo: 

Nguyễn Công S, sinh ngày 20/10/1978; Nơi ĐKHKTT: Thôn Q, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Chỗ ở: Khu phố chợ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc; văn hóa: 12/12; nghề nghiệp: Giáo viên; Đoàn thể: Đảng viên, ngày 19/7/2017 đã bị Uỷ ban kiểm tra huyện ủy TĐ ra Quyết định đình chỉ sinh hoạt đảng; con ông Nguyễn Văn Ch (đã chết) và bà Lê Thị O; có vợ là Nguyễn Thị H và có 2 con (lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2010); tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/7/2017 đến ngày 01/8/2017 được thay thế biện pháp ngăn chặn. Bị cáo tại ngoại. Có mặt

*Người bị hại: Ông Lê Văn H, sinh năm 1958; trú tại: Thôn N, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc (đã chết)

* Đại diện hợp pháp của người bị hại: Bà Lê Thị L, sinh năm 1963; trú tại: Thôn L, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

*Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Anh Nguyễn Hồng Q, sinh năm 1975; trú tại: thôn Q, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

2. Bà Lê Thị L, sinh năm 1963; trú tại: Thôn Làng M, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

3. Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1979; Khu phố chợ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

4. Trung tâm anh ngữ POPODOO; địa chỉ: Khu phố chợ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc; Đại diện theo pháp luật: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1989; trú tại: Khu phố chợ, xã TQ, huyện TĐ, tỉnh Vĩnh Phúc. Có mặt

NHẬN THẤY

Bị cáo Nguyễn Công S bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 09h00’ ngày 07/5/2017, Nguyễn Công S một mình đi bộ đến nhà anh Nguyễn Văn H ở cùng thôn để uống rượu đám cưới. Khi đang ngồi uống rượu thì S nhận được điện thoại của anh Đỗ Quang A ở phường H, thị xã P gọi điện thoại rủ S lên Tây Thiên chơi, S đồng ý và nói “tý em qua”, rồi ngồi uống rượu tiếp. Sau khi ăn uống xong, S đi bộ sang nhà anh Nguyễn Hồng Q - là anh trai S- ở gần đó ngồi chơi uống nước và S hỏi anh Q “quán Phố Núi ở đâu em có bạn trên đó”, thì anh Q nói “tý anh lên cơ quan để anh dẫn đường lên đó”. Nghe anh Q nói vậy, S đi về nhà và điều khiển xe ô tô BKS 88A-160.96 của mình để đi cùng anh Q lên quán Phố Núi ở Tây Thiên thuộc xã Đại Đình gặp anh Quang A. Khi đi, anh Q điều khiển xe của anh Q đi trước, S điều khiển xe của S đi theo sau. Khi lên đến nơi, S cùng anh Q đi vào quán Phố Núi thì Sự thấy anh Quang A và cháu Đỗ Hà Minh Nh - là con trai anh Quang A - đang ngồi ở quán. Tại đây, anh Quang A mời anh Q và S uống bia, sau đó mời S và anh Q ăn cơm. Trong khi ăn thì tất cả mọi người có uống rượu. Ngồi ăn uống được một lúc, anh Q dặn S “đừng uống rượu nữa” rồi đứng dậy đi về trước để đi làm, còn lại anh Quang A, cháu Minh Nh và S ngồi ăn uống tiếp. Khoảng gần 13h thì ăn xong, S và anh Quang A ngồi uống nước nói chuyện với nhau. Do uống nhiều rượu nên S thấy buồn ngủ, S xin phép anh Quang A rồi đi về. Sự lên xe ô tô nổ máy, bật quạt gió, điều hòa và mở đài to rồi điều khiển xe đi theo đường tỉnh lộ 302 hướng đi từ xã Đại Đình về xã Tam Quan để đi về nhà, Sự điều khiển xe ô tô đi với tốc độ khoảng 50-60km/h. Khi đi đến km 22+600 thuộc thôn Nhân Lý, xã Tam Quan, do say rượu không làm chủ được tốc độ, S điều khiển xe ô tô BKS 88A-160.96 đã đâm vào ông Lê Văn H vừa phơi lúa xong và đang ngồi bốc rơm lúa ở đường, làm ông H bị ngã ra đường. Do say rượu nên Sự không biết xe ô tô của mình đã đâm vào ông H nên Sự tiếp tục điều khiển xe về nhà và lên giường ngủ. Hậu quả ông H bị thương nặng và đã tử vong, xe ô tô bị hư hỏng nhẹ.

Sau khi sự việc xảy ra, Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã tiến hành khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm phương tiện liên quan, khám nghiệm tử thi Lê Văn Hôm theo đúng quy định của pháp luật.

Quá trình khám nghiệm có thu mẫu vật để yêu cầu giám định: Thu mẫu sơ sợi bám dính trên ba đờ sốc, điểm cong vênh bên phải. Sợi tóc bám dính trên nắp ca pô. Mẫu chất màu nâu đỏ. Bọc giả da vô lăng.

- Kết quả khám nghiệm tử thi Lê Văn H:

Tại bản kết luận giám định pháp y về tử thi số 103/TT ngày 12/5/2017, của Trung tâm pháp y - Sở y tế tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: “1. Dấu hiệu qua giám định: Nhiều vết sây sát da và rách da cơ. Chấn thương sọ não nặng, dập vỡ xương hộp sọ. Chấn thương ngực kín, gãy nhiều xương sườn. Gãy dời kín 1/3 dưới xương đùi phải. Gãy dời hở cả hai xương cẳng chân phải. 2. Nguyên nhân tử vong: Sốc đa chấn thương không hồi phục.”

- Kết quả giám định sinh học gen, sinh học vải sợi:

Tại bản kết luận giám định số 2321/C54(TT3) của Viện khoa học hình sự - Tổng cục cảnh sát ngày 23/6/2017 xác định: Mẫu ghi tóc người ký hiệu A3 là tóc người, do chất lượng mẫu kém nên không xác định được kiểu gen; Do lượng mẫu ít và chất lượng mẫu kém nên không đủ điều kiện để khẳng định mẫu nghi máu ký hiệu A4 có phải là máu hay không; Các mẫu ghi máu KH A5,A6,A7 và b1 là máu người và là máu của nạn nhân Lê Văn H; Trên chiếc vỏ bọc vô lăng ký hiệu A8 có bám dính tế bào người, kiểu gen trùng với kiểu gen của Nguyễn Công S; lưu kiểu gen của Nguyễn Công S và kiểu gen của Lê Văn H tại Viện khoa học hình sự, Bộ công an.

Tại bản kết luận giám định số 437/KLGĐ ngày 11/5/2017, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Mẫu sơ sợi bám dính trên ba đờ sốc bên phải xe ô tô BKS 88A-160.96 - Ký hiệu A1 gửi giám định cùng loại với mẫu vải sợi chiếc áo phông cộc tay màu xanh của tử thi Lê Văn H - Ký hiệu M1 gửi làm mẫu so sánh; Không cùng loại với mẫu sợi vải chiếc quần đùi màu đen của tử thi Lê Văn H

- Ký hiệu M1 gửi làm mẫu so sánh.

Mẫu sơ sợi bám dính trên điểm cong vênh biến dạng ở thân xe bên phải xe ô tô BKS 88A-160.96 - Ký hiệu A2 cùng loại với mẫu vải sợi chiếc áo phông cộc tay màu xanh của tử thi Lê Văn H - Ký hiệu M1 gửi làm mẫu so sánh. Không cùng loại với mẫu sợi vải chiếc quần đùi màu đen của tử thi Lê Văn H - ký hiệu M1 gửi làm mẫu so sánh.

Về trách nhiệm dân sự: Sau khi vụ tai nạn xảy ra, đại diện gia đình Nguyễn Công S là anh Nguyễn Hồng Q - anh trai Sự - đã tự nguyện bồi thường cho gia đình nạn nhân ông Lê Văn H tổng số tiền là 220.000.000 đồng (hai trăm hai mươi triệu đồng), đại diện gia đình nạn nhân bà Lê Thị L - em gái nạn nhân - đã nhận đủ số tiền trên. Sau khi nhận tiền bà Lành và gia đình không yêu cầu bị cáo Sự phải bồi thường thêm khoản tiền gì khác, đồng thời có đơn xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự đối với S.

Sau khi tai nạn xảy ra, cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã tạm giữ 01 xe ô tô BKS 88A-160.96; 01 đăng kiểm và 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự của xe ô tô BKS 88A-160.96; 01 giấy phép lái xe hạng A1, B2 số 260100267538 mang tên Nguyễn Công S, 01 đầu Camera màu đen có nhãn hiệu @huatechnology, 02 chậu kim loại, 01 đôi tông màu vàng và 01 bộ quần áo và 01 mảnh nhựa. Quá trình điều tra xác định xe ô tô BKS 88A-160.96 và các giấy tờ trên là tài sản chung của vợ chồng S, S phạm tội với lỗi vô ý nên ngày 24/7/2017, Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị H - vợ bị cáo S - chiếc xe trên và các giấy tờ liên quan.

Đối với 01 đầu máy Camera màu đen có nhãn hiệu @huatechnology là của Trung tâm anh ngữ POPODOO không liên quan đến vụ án nên ngày 15/6/2017, Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị T - là người đại diện hợp pháp của trung tâm anh ngữ POPODOO chiếc đầu Camrea trên. Sau khi nhận lại tài sản chị T không có yêu cầu đề nghị gì.

Đối với 02 chậu kim loại, 01 đôi tông màu vàng và 01 bộ quần áo cơ quan điều tra đã thu giữ. Quá trình điều tra xác định đây là tài sản của ông Lê Văn H. Nay ông H đã chết, đại diện gia đình không có nhu cầu sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 mảnh nhựa đã thu giữ, qua trình điều tra xác định là mảnh nhựa vỡ từ xe ô tô của S, không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Trong vụ án này, ông Lê Văn H đã không tuân thủ quy định của luật giao thông đường bộ, trưa ngày 07/5/2017, ông H đã sử dụng lòng đường phơi rơm, phơi lúa trái phép, do không chú ý các phương tiện tham gia giao thông nên ông đã bị xe ô tô của S đâm vào và tử vong. Hành vi đó của ông H đã vi phạm qui định tại khoản 3 Điều 8 và điểm d khoản 2 Điều 35 Luật giao thông đường bộ. Khoản 3 Điều 8 quy định các hành vi bị nghiêm cấm: “3. Sử dụng lòng đường... trái phép”; Điểm d khoản 2 Điều 35 quy định các hoạt động khác trên đường bộ:”2. Không được thực hiện các hành vi sau đây:...d) Phơi thóc, lúa, rơm rạ... trên đường bộ”. Do vậy, vụ tai nạn trên xảy ra có một phần lỗi thuộc về ông H nhưng ông H đã chết nên không đề cập xử lý.

Đối với hành vi của Nguyễn Công S sau khi gây tai nạn đã điều khiển xe ô tô đi về nhà và lên giường ngủ: Quá trình điều tra xác định ngày 07/5/2017, sau khi uống rượu tại đám cưới nhà anh H về thì S lên quán Phố Núi ở Tây Thiên thuộc xã Đại Đình gặp anh Quang A - là bạn của S - và đã uống bia, uống rượu cùng anh Quang A, do uống nhiều rượu nên S bị say rượu. Biết mình bị say rượu nhưng S vẫn tự điều khiển xe ô tô BKS 88A - 160.96 của mình đi về, trên đường về đã đâm vào ông H, làm ông H bị tử vong nhưng S không biết và tiếp tục điều khiển xe về nhà, để xe ở sân rồi đi ngủ. Đến chiều khi được chị Nguyễn Thị H - vợ của S - gọi dậy hỏi về việc xe bị hỏng vỡ phần đầu bên phải; sau đó Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đến làm việc thì S mới biết sự việc trên và Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã tiến hành đo nồng độ cồn trong hơi thở của S lúc đó xác định là: 0,929mg/L. Việc S gây tai nạn rồi tiếp tục điều khiển xe đi khỏi hiện trường là do lúc đó S say rượu nên không biết việc mình gây tai nạn, không phải S cố ý bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm. Mặt khác, sau khi điều khiển xe về nhà, sự để xe ở sân rồi vào ngủ luôn, không có bất cứ hành vi nào để xóa bỏ dấu vết... Do vậy S không phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết “gây tai nạn rồi bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm...”quy định tại điểm c khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự mà chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tình tiết “Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn” được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại Cáo trạng số 50/KSĐT-TA ngày 07/9/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Tam Đảo đã truy tố bị cáo Nguyễn Công S về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự;

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà đã phân tích hành vi phạm tội, đặc điểm nhân thân, những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Công S phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”; áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Xử phạt Nguyễn Công S từ 02 năm 09 tháng tù đến 03 năm tù, cho hưởng án treo và ấn định thời gian thử thách của bị cáo theo quy định của pháp luật;

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng của vụ án: Áp dụng Điều 41, Điều 42 Bộ luật hình sự, Điều 591 Bộ luật dân sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Xác nhận đại diện gia đình và Nguyễn Công S đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại - ông Lê Văn H số tiền 220.000.000đ. Bà Lê Thị L - đại diện cho gia đình người bị hại - đã nhận đủ số tiền trên. Sau khi nhận tiền không ai có đề nghị gì khác về dân sự; xác nhận ngày 24/7/2017, Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị H - vợ Nguyễn Công S: 01 xe ô tô BKS 88A-160.96, 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự, 01 đăng kiểm của xe ô tô BKS 88A-160.96; xác nhận ngày 15/6/2017, Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị T - là người đại diện hợp pháp của trung tâm anh ngữ POPODOO chiếc đầu máy camrea; tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép tông màu vàng, 02 chậu kim loại, 01 bộ quần áo và 01 mảnh nhựa vỡ; trả lại cho Nguyễn Công S 01 Giấy phép lái xe ô tô nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành  án;Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác;

XÉT THẤY

Tại phiên toà bị cáo đã khai nhận: Khoảng 13h15, ngày 07/5/2017, Nguyễn Công S có giấy phép lái xe ô tô theo quy định do sở giao thông vận tải tỉnh Vĩnh Phúc cấp ngày 02/4/2015 điều khiển xe ô tô BKS 88A - 160.96 đi theo hướng từ xã Đại Đình về xã Tam Quan để về nhà với tốc độ khoảng 50-60km/h. Khi đi đến Km22+600, đường tỉnh lộ 302 thuộc thôn Nhân Lý, xã Tam Quan do uống say, không làm chủ tốc độ đã đâm vào ông Lê Văn H vừa phơi lúa xong đang bốc rơm lúa ở đường làm ông H bị ngã ra đường. Do bị say rượu, Sự không biết mình đã đâm vào ông H nên tiếp tục điều khiển xe về nhà và lên giường ngủ. Hậu quả ông H bị thương tích nặng, đã tử vong còn xe ô tô bị hư hỏng nhẹ.

Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, với lời khai của người làm chứng, với vật chứng đã được thu giữ, với các chứng cứ khác đã được thu thập và phù hợp với Cáo trạng đã được Đại diện Viện kiểm sát công bố tại phiên tòa.

Nguyễn Công S mặc dù đã được cấp giấy phép lái xe ô tô, ngày 07/5/2017, S điều khiển xe ô tô BKS 88A-160.96 tham gia giao thông, do không tuân thủ các quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng người khác. Hành vi của Nguyễn Công S đã vi phạm khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ quy định các hành vi bị nghiêm cấm và khoản 1 Điều 5 Thông tư 91/2015/TT- BGTVT ngày 31/12/2015 quy định về tốc độ và khoảng cách của xe cơ giới, xe máy, chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ.

Khoản 8 Điều 8 Luật giao thông đường bộ quy định: “8 Điều khiển xe ô tô... trên đường mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Khoản 1 Điều 5 Thông tư số 91 quy định: Các trường hợp phải giảm tốc độ:

Người điều khiển phương tiện tham gia giao thông đường bộ phải giảm tốc độ thấp hơn tốc độ tối đa cho phép (có thể dừng lại một cách an toàn) trong các trường hợp sau:

 “1. ... hoặc có chướng ngại vật trên đường”.

Do vậy đã có đủ cơ sở kết luận: Bị cáo Nguyễn Công S phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 202 Bộ luật hình sự.

Điều luật quy định: “Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng ... của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn”.

Xét tính chất của vụ án là rất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến trật tự an toàn giao thông đường bộ, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của các phương tiện tham gia giao thông, gây thiệt hại đến tính mạng của người khác. Khi điều khiển phương tiện tham gia giao thông, bị cáo nhận thức được phải tuân thủ các quy tắc khi tham gia giao thông nhưng bị cáo đã không chấp hành. Vì vậy cần phải xử lý nghiêm nhằm mục đích giáo dục riêng và phòng ngừa chung;

Tuy nhiên, khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử thấy rằng: Trước khi phạm tội, bị cáo có nhân thân tốt. Sau khi phạm tội, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả. Bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại các điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự là: Gia đình bị cáo có công với cách mạng, bố bị cáo là thương binh loại A, có nhiều công lao trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và đã được tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhì; ông nội bị cáo là cán bộ tiền khởi nghĩa; bác ruột bị cáo là liệt sỹ hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, hiện bị cáo đang cùng với gia đình thờ cúng liệt sỹ; bản thân bị cáo có nhiều thành tích trong sự nghiệp giáo dục, là giáo viên dạy giỏi cấp huyện, được công nhận là chiến sỹ thi đua cơ sở và nhiều năm liên tục được tặng thưởng Giấy khen; Đại diện gia đình bị hại đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo; vụ án xảy ra có một phần lỗi của người bị hại. Vì vậy cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ để cải tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

Về trách nhiệm dân sự và vật chứng của vụ án: Đại diện gia đình và Nguyễn Công S đã tự nguyện bồi thường cho gia đình người bị hại - ông Lê Văn H số tiền 220.000.000đ. Bà Lê Thị L - đại diện cho gia đình người bị hại - đã nhận đủ số tiền trên; Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị H - vợ Nguyễn Công S: 01 xe ô tô BKS 88A-160.96, 01 bảo hiểm trách nhiệm dân sự, 01 đăng kiểm của xe ô tô BKS 88A-160.96; Cơ quan điều tra Công an huyện Tam Đảo đã trả lại cho chị Nguyễn Thị T - là người đại diện hợp pháp của trung tâm anh ngữ POPODOO chiếc đầu máy Camrea. Sau khi nhận tiền và các tài sản, giấy tờ trên không ai có đề nghị gì khác về dân sự nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết; cần tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép tông màu vàng, 02 chậu kim loại, 01 bộ quần áo và 01 mảnh nhựa vỡ; cần trả lại cho Nguyễn Công S 01 Giấy phép lái xe ô tô nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án;

Bị cáo phải chịu án phí theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Công S phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 202, điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, khoản 1, khoản 2 Điều 60 Bộ luật hình sự; khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự. Xử phạt Nguyễn Công S 03 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 năm, thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao bị cáo cho Ủy ban nhân dân xã Tam Quan, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 Luật thi hành án hình sự.

Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự, Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đôi dép tông màu vàng, 02 chậu kim loại, 01 bộ quần áo và 01 mảnh nhựa vỡ; trả lại cho Nguyễn Công S 01 Giấy phép lái xe ô tô nhưng tiếp tục tạm giữ để đảm bảo thi hành án; (có đặc điểm như biên bản giao nhận vật chứng ngày 25/9/2017)

Về án phí: Áp dụng Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/PL-UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án án ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, đại diện hợp pháp của người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án;

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

347
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2017/HSST ngày 07/11/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:53/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Đảo - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;