Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 53/2017/HNGĐ-ST NGÀY 28/08/2017 VỀ YÊU CẦU LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON CHUNG

Trong ngày 28 tháng 8 năm 2017 tại Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 122/2017/TLST- HNGĐ ngày 28 tháng 02 năm 2017 về việc: “Yêu cầu ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 54/2017/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 7 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 41/2017/QĐST – HNGĐ ngày 09 tháng 8 năm 2017, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị L, sinh năm 1996

Địa chỉ: Thôn NT, xã ĐT, huyện MY, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Thanh H, sinh năm 1984

Địa chỉ: 22A đường L, tổ 5, phường TB, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 22/02/2017, bản tự khai ngày 28/02/2017 và tại phiên toà, nguyên đơn chị Huỳnh Thị L trình bày:

Chị và anh Nguyễn Thanh H tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐT, huyện MY, tỉnh Gia Lai ngày 03/3/2014. Sau khi kết hôn, chị và anh H sinh sống tại tổ 5, phường TB, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Sau một thời gian chung sống, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, anh chị xảy ra cải vã, xích mích, anh H thường xuyên có hành vi ngược đãi, xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của chị và gia đình chị. Hai bên gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh H vẫn không thay đổi. Chị tự nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đã về nhàcha mẹ để sinh sống. Chị và anh Nguyễn Thanh H sống ly thân từ đầu năm  2015 đến nay. Nay chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Thanh H.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Thanh H có 01 (Một) con chung là Nguyễn Minh D, sinh ngày 08/6/2014. Cháu hiện đang sống với chị. Ly hôn chị yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung

Về cấp dưỡng nuôi con: Bản thân chị có khả năng về kinh tế để nuôi con chung là Nguyễn Minh D nên chị không yêu cầu anh Nguyễn Thanh H phải có nghĩa vụ cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị và anh Nguyễn Thanh H không có tài sản chung và nghĩa vụ chung phải thực hiện nên không yêu cầu Tòa giải quyết.

Đối với bị đơn anh Nguyễn Thanh H:

Anh Nguyễn Thanh H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để anh H trình bày ý kiến về yêu cầu ly hôn, giải quyết vấn đề con chung của chị Huỳnh Thị L nhưng anh Nguyễn Thanh H không đến Tòa án làm việc. Vì vậy Tòa án tiến hành các thủ tục tố tụng theo luật định để xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Pleiku có ý kiến như sau:

Về trình tự, thủ tục tố tụng: Việc Tòa án thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục tố tụng. Quá trình chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật về thụ lý vụ án, thẩm quyền giải quyết vụ án, thu thập chứng cứ, thông báo về việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như trình tự phiên tòa. Nguyên đơn chị Huỳnh Thị L chấp hành đúng theo quy định của pháp luật tố tụng. Đối với bị đơn anh Nguyễn Thanh H, việc chấp hành theo quy định của pháp luật tố tụng chưa bảo đảm.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị L về vấn đề hôn nhân và giao cháu Nguyễn Minh D cho chị Huỳnh Thị L chăm sóc, nuôi dưỡng. Chị Huỳnh Thị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Chị Huỳnh Thị L và anh Nguyễn Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, không thuộc trường hợp cấm kết hôn, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã ĐT, huyện MY, tỉnh Gia Lai ngày 03/3/2014. Hôn nhân của chị L và anh H tuân thủ theo Điều 9,10,11 Luật hôn nhân gia đình năm 2000 nên hôn nhân hợp pháp.

Do mâu thuẫn vợ chồng chị Huỳnh Thị L yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Thanh H đồng thời giải quyết về vấn đề con chung, bị đơn anh Nguyễn Thanh H cư trú trên địa bàn thành phố Pleiku nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Pleiku theo loại việc, theo lãnh thổ và theo cấp xét xử

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn là anh Nguyễn Thanh H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng của Tòa án để anh H trình bày ý kiến về yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị L, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải đoàn tụ ngày 31/5/2017 và hòa giải về hôn nhân, con chung và các vấn đề khác ngày 19/6/2017 cũng như tham gia phiên tòa nhưng anh H vắng mặt nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Theo biên bản xác minh ngày 05/5/2017, chị Huỳnh Thị L và anh Nguyễn Thanh H có mâu thuẫn trong cuộc sống hôn nhân nên hiện chị L không chung sống với anh H.

Biên bản xác minh này phù hợp với lời khai của chị Huỳnh Thị L: Chị và anh H thường xuyên xảy ra cãi vã, xích mích, nhiều lần anh H có hành vi ngược đãi, xúc phạm danh dự của chị và gia đình chị dẫn đến tình cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt, anh chị đã sống ly thân từ đầu năm 2015 đến nay. Trong thời gian sống ly thân, anh chị không liên lạc, mỗi người đều có cuộc sống riêng, không ai quan tâm đến nhau.

Từ đó có cơ sở khẳng định hôn nhân giữa chị Huỳnh Thị L và anh Nguyễn Thanh H phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị L, xử cho chị L được ly hôn anh Nguyễn Thanh H.

Về con chung: Chị Huỳnh Thị L và anh Nguyễn Thanh H có 01 (Một) con chung là cháu Nguyễn Minh D, sinh ngày 08/6/2014

Chị Huỳnh Thị L có nguyện vọng được chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Xét cháu Nguyễn Minh D còn nhỏ và hiện đang sống với chị L, chị L là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cháu từ lúc sinh ra đến nay. Trong quá trình xảy ra mâu thuẫn, chị L đã dẫn cháu Nguyễn Minh D về sinh sống tại thôn NT, xã ĐT, huyện MY, tỉnh Gia Lai, cháu hiện đang sống và sinh hoạt ổn định, căn cứ theo quy định tại Điều 92 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, việc giao cháu Nguyễn Minh D cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng sau khi ly hôn là chính đáng và phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Huỳnh Thị L đủ điều kiện kinh tế chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Nguyễn Minh D nên không yêu cầu anh Nguyễn Thanh H cấp dưỡng nuôi con do đó Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Chị Huỳnh Thị L không yêu cầu Tòa án giải quyết vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét trong cùng vụ án này.

Về án phí: Chị Huỳnh Thị L phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 266; Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 9, 10, 11, 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000;

Áp dụng Điều 51, 53, 54, 56, 57, 81, 82, 83 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ Điều 146, Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện của chị Huỳnh Thị L Chị Huỳnh Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Thanh H.

2. Về con chung: Giao con chung là cháu Nguyễn Minh D, sinh ngày 08/6/2014 cho chị Huỳnh Thị L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi con thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Huỳnh Thị L phải chịu tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 (Ba trăm nghìn)đồng nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp trước đây theo biên lai số 0002899 ngày 28/02/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn chị Huỳnh Thị L được quyền làm đơn kháng cáo lên Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai để yêu cầu xét xử phúc thẩm. Riêng bị đơn anh Nguyễn Thanh H vắng mặt tại phiên toà có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án hoặc bản sao bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

288
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 28/08/2017 về yêu cầu ly hôn, tranh chấp nuôi con chung

Số hiệu:53/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;