Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĨNH BẢO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 53/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/09/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 21 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2017/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 5 năm 2017. Về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2017/QĐST-HNGĐ ngày 16 tháng 8 năm 2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 25/2017/QĐST-HNGĐ ngày 05 tháng 9 năm 2017, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị L, sinh năm 1983; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng; nơi ở: Thôn Dương Tiền, xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978; đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng.

Chị L có mặt, anh T vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết đề ngày 27 tháng 3 năm 2017, tại bản tự khai, tại các phiên hòa giải và tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Bùi Thị L trình bày:

Chị và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng vào ngày 07 tháng 12 năm 2002. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian ngắn sau đó phát sinh rất nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, lối sống, cùng với việc anh T thường xuyên rượu chè, cờ bạc không quan tâm đến gia đình vợ con, không tin tưởng nhau trong quan hệ hôn nhân nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, xúc phạm không tôn trọng nhau, thậm chí cả xô xát lẫn nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, hiện vợ chồng đã sống ly thân, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị vẫn giữ nguyên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là Nguyễn Thị P, sinh ngày 11- 8-2003 và Nguyễn Văn H, sinh ngày 12-3-2011. Ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị xin tự giải quyết với anh T.

Về tài sản chung: Chị và anh T không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 29 tháng 5 năm 2017, tại các phiên hòa giải bị đơn là anh Nguyễn Văn T khai nhận:

Anh xác nhận về điều kiện, thời điểm kết hôn và tình trạng mâu thuẫn vợ chồng như nội dung chị L trình bày là đúng. Tuy nhiên, nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị L trình bày có nhiều điểm không đúng thực tế. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm, chị L không tôn trọng anh, trước đây anh có chơi bời cờ bạc, rượu chè nhưng không phải là chuyên nghiệp, anh vẫn lao động để có tiền nuôi con. Khi mâu thuẫn chị L thường hay bỏ về nhà mẹ đẻ nên trong những lúc nóng giận anh có dùng bạo lực và lời lẽ không hay để dạy vợ con. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 02 năm 2017 đến nay, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Nay, chị L xin ly hôn với anh, anh không đồng ý vì con anh còn nhỏ cần có sự chăm sóc của cả bố và mẹ, hơn nữa anh vẫn còn tình cảm với chị L.

Về con chung: Anh và chị L có 02 con chung là Nguyễn Thị P, sinh ngày 11- 8-2003 và Nguyễn Văn H, sinh ngày 12-3-2011. Trường hợp ly hôn anh đồng ý giao cả 02 con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung anh xin tự giải quyết với L.

Về tài sản chung: Anh và chị L không có tài sản chung nên không yêu cầu giải quyết.

Ý kiến của kiểm sát viên tại phiên tòa:

- Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo xác định quan hệ tranh chấp về ly hôn và nuôi con chung khi ly hôn là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, về thẩm quyền đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về việc T theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình đề nghị Hội đồng xét xử xét những nội dung sau:

+ Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị L xin ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

+ Về con chung: Đề nghị giao cả 02 con chung là Nguyễn Thị P, sinh ngày 11- 8-2003 và Nguyễn Văn H, sinh ngày 12-3-2011 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung anh T và chị L xin tự giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

+ Về tài sản chung: Anh T và chị L đều xác nhận vợ chồng không có tài sản chung nên không đặt ra giải quyết.

+ Về án phí: Đề nghị áp dụng khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, khoản 1 Điều 6 , điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án chị L phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

 [1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về Hôn nhân và gia đình giữa nguyên đơn là Chị Bùi Thị L và bị đơn là anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1978; có đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn Đ, xã T, huyện V, thành phố Hải Phòng. Vì vậy, căn cứ vào khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án này thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Vĩnh Bảo.

Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đều có mặt theo giấy triệu tập của tòa án, có bản tự khai và tham gia đầy đủ Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, có mặt tại phiên tòa sơ thẩm. Như vậy, nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn T đã nhận được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án về việc thông báo thụ lý vụ án, thông báo về việc mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, đã nhận được Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ nhưng tại phiên tòa lần thứ 2 anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ theo điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là anh Nguyễn Văn T.

 [2] Về nội dung vụ án: Căn cứ vào lời khai của các đương sự, các tài liệu, chứng cứ do các đương sự giao nộp và do Tòa án thu thập được, có đủ cơ sở kết luận:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị L và anh Nguyễn Văn T kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Trấn Dương, huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng năm 2002. Như vậy, hôn nhân này là hôn nhân hợp pháp.

Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hoà thuận, hạnh phúc được thời gian đầu sau đó phát sinh nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm, lối sống, không hợp nhau về tính cách, vợ chồng không tin tưởng nhau trong quan hệ hôn nhân nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, xô xát với nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được gia đình hai bên khuyên giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Vợ chồng đã sống ly thân, cắt đứt mọi quan hệ nghĩa vụ vợ chồng. Chị L xin ly hôn, anh T không đồng ý anh cho rằng anh vẫn còn tình cảm với chị L và vì con cái còn nhỏ cần có sự chăm sóc của cả bố và mẹ. Tuy nhiên, anh không đưa ra được biện pháp để vợ chồng khắc phục những mâu thuẫn và hàn gắn tình cảm vợ chồng. Tòa án tiến hành hòa giải nhiều lần nhưng không đạt kết quả và tại phiên Tòa lần 2 anh T vẫn vắng mặt không có lý do. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữ chị L và anh T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của chị Bùi Thị L xin ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

- Về con chung: Chị L và anh T có 02 con chung là Nguyễn Thị P, sinh ngày11-8-2003 và Nguyễn Văn H,  sinh ngày 12-3-2011. Xét việc chị L có nguyện vọng được trược tiếp nuôi dưỡng cả hai con chung và anh T cũng đồng ý, hơn nữa con chung Nguyễn Thị P đã trên 07 tuổi và có nguyện vọng được ở với chị L và thự tế cả 02 con chung hiện đang sinh sống cùng với chị L, chị L đã chăm sóc các con chung đều tốt. Nên giao cả 02 con chung cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình, phù hợp với nguyện vọng của cháu P và phù hợp với thực tế về điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con chung của chị L. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cả 02 con chung của chị Bùi Thị L. Việc cấp dưỡng nuôi con chung chị L và anh T xin tự thỏa thuận nên Hội đồng xét xử không xét giải quyết.

- Về tài sản chung: Chị L và anh T đều xác nhận vợ chồng không có tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xét.

 [3] Về án phí: Chị L phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 4 Điều 147; khoản 2 Điều 227; Điều 266 và khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 6 , điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Xử:

1 . Về quan hệ hôn nhân : Xử cho chị Bùi Thị L được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

2 . Về con chung :Giao cả 2 con chung là Nguyễn Thị P, sinh ngày 11- 8-2003 và Nguyễn Văn H, sinh ngày 12-3-2011 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng đến khi đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự giải quyết.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị L phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chị Hoa đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền tạm ứng án phí tại biên lai thu số 0005393 ngày 29 tháng 5 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Vĩnh Bảo, thành phố Hải Phòng. Chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

257
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 53/2017/HNGĐ-ST ngày 21/09/2017 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:53/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Bảo - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;