Bản án 530/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 530/2019/HS-ST NGÀY 18/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 11 năm 2019, tại Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 538/2019/TLST-HS ngày 06 tháng 11 năm 2019; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 543/2019/QĐXXST-HS ngày 07 tháng 11 năm 2019 đối với:

- Bị cáo: Trần Ngọc T, sinh năm 1990 tại Nghệ An; nơi đăng ký thường trú: Xóm H, xã N1, huyện N2, tỉnh Nghệ An; nơi cư trú: Không có nơi cư trú rõ ràng; nghề nghiệp: Không; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Ngọc S1 và bà Nguyễn Thị S2; gia đình bị cáo có 03 anh em, bị cáo là con thứ nhất trong gia đình và chưa có vợ con.

Tiền án, tiền sự: Không.

Nhân thân: Năm 2009, bị cáo Trần Ngọc T bị Tòa án nhân dân huyện N2, tỉnh Nghệ An xử phạt 09 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Cố ý gây thương tích”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt và được cấp Giấy chứng nhận xóa án tích ngày 20/5/2015.

Bị cáo bị bắt khẩn cấp ngày 22/7/2019 và chuyển tạm giam ngày 30/7/2019. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hòa (bị cáo có mặt tại phiên tòa).

- Người bị hại: Bà Cao Thị H, sinh năm 1970; cư trú tại: 40/8A, Tổ 8D, Khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai (người bị hại có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

1. Nội dung chính của vụ án:

Khong 11 giờ ngày 20/7/2019, Trần Ngọc T đến nhà Trần Minh H1, sinh ngày 24/10/2004, địa chỉ tại số 117, tổ 9, Khu phố 3, phường A, thành phố B để chơi. Tại đây, T đã rủ H1 đi trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài và được H1 đồng ý. H1 sử dụng xe mô tô biển số 60Y1-2544 chở T ngồi sau đi lòng vòng để tìm tài sản trộm cắp. Khi đi ngang qua nhà chị Cao Thị H, sinh năm 1970, địa chỉ tại số 40/8A, tổ 8D, Khu phố 3, phường A, thành phố B thì phát hiện cổng nhà chị H khóa bằng ổ khóa treo, khu vực vắng người qua lại nên T nói với H1 dừng xe đứng ngoài cảnh giới còn T dùng sợi thép lò xo mở khóa cổng và khóa nhà đột nhập vào trong trộm cắp 01 máy tính xách tay hiệu Compaq rồi ra ngoài đưa cho H1 đem về nhà cất giấu. Sau đó, T quay lại vào trong nhà chị H dắt chiếc xe mô tô hiệu Honda biển số 60F3-024.24 đi ra ngoài và dẫn bộ được khoảng 30m do không mở được khóa xe nên T bỏ xe lại. T đi về nhà Trần Minh H1 lấy chiếc máy tính xách tay trộm cắp được mang đến tiệm Game bắn cá địa chỉ 190 đường X, Khu phố 5A, phường L, thành phố B cầm cố cho Nguyễn Văn H2, sinh năm 1988 là chủ cửa hàng được 500.000 đồng (Năm trăm nghìn đồng) và tiêu xài cá nhân hết. Bị mất tài sản nên chị H đến trình báo Công an phường A. Qua xác minh, ngày 22/07/2019, Cơ quan Cảnh sát điều tra thành phố Biên Hòa đã mời Trần Ngọc T và Trần Minh H1 đến làm việc, T và H1 đã khai nhận toàn bộ diễn biến hành vi phạm tội của mình.

Vật chứng gồm:

- 01 máy tính xách tay hiệu Compaq, 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda biển số 60F3-024.24 là những tài sản bị trộm cắp, đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu hồi trả lại cho người bị hại là chị Cao Thị H.

- 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu KAISER, màu đỏ, biển số 60Y1-2544, số máy 30010023, không rõ số khung là phương tiện H1 và T sử dụng vào việc phạm tội.

Tại kết luận định giá tài sản số 301/TCKH-HĐĐG ngày 30/07/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng thành phố B kết luận: 01 máy tính xách tay hiệu Compaq, 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda biển số 60F3-024.24 có tổng trị giá là 19.341.000 đồng (Mười chín triệu, ba trăm bốn mươi mốt nghìn đồng).

Về dân sự: Chị Cao Thị H đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường.

2. Truy tố:

Tại Cáo trạng số: 533/CT-VKSBH ngày 01/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai đã truy tố Trần Ngọc T về tội: “Trộm cắp tài sản”, theo Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị;

+ Áp dụng Khoản 1, Điều 173 và điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm o, Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017); xử phạt bị cáo Trần Ngọc T từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù.

3. Ý kiến của những người tham gia tố tụng:

- Người bị hại trình bày trong hồ sơ vụ án: Tài sản đã nhận lại nên không yêu cầu gì; đối với trách nhiệm hình sự của bị cáo thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

- Lời nói sau cùng: Bị cáo ăn năn hối cải, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng:

Trong suốt quá trình điều tra, truy tố và xét xử, các hành vi, quyết định tố tụng của những người tiến hành tố tụng phù hợp với quy định của pháp luật tố tụng hình sự; các văn bản tố tụng được tống đạt hợp lệ và đầy đủ. Bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

Người bị hại là chị Cao Thị H, người làm chứng là anh Trần Minh H1 vắng mặt tại phiên tòa. Tuy nhiên, chị H có đơn xin xét xử vắng mặt; người làm chứng có lời khai đầy đủ trong hồ sơ vụ án. Việc vắng mặt trên không ảnh hưởng đến việc xét xử nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi bị truy tố, tội danh và các tình tiết liên quan đến việc quyết định hình phạt:

- Những chứng cứ xác định có tội: Tại phiên tòa cũng như quá trình điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp lời khai trong biên bản hỏi cung bị can, biên bản lấy lời khai bị hại, người làm chứng, kết luận định giá tài sản, cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 11 giờ ngày 20/7/2019, tại địa chỉ số 40/8A, tổ 8D, Khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Trần Ngọc T cùng với Trần Minh H1 sinh ngày 24/10/2004 đã có hành vi trộm cắp 01 chiếc máy tính xách tay hiệu Compaq, 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda biển số 60F3-024.24 có tổng trị giá là 19.341.000 đồng (Mười chín triệu, ba trăm bốn mươi mốt nghìn đồng) của chị Cao Thi H thì bị phát hiện điều tra, xử lý theo quy định của pháp luật.

- Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội và lỗi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến quyền sở hữu tài sản của người bị hại được Nhà nước bảo vệ, gây ảnh hưởng trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo sợ trong quần chúng nhân dân. Bị cáo không có nghề nghiệp, sống lang thang, mặc dù đang trong độ tuổi lao động nhưng lại lười lao động, không chịu dùng chính sức lao động của mình để tạo thu nhập nuôi sống bản thân mà lại thực hiện hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác để có tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo biết việc lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng vẫn cố tình thực hiện phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Bản thân bị cáo đã từng bị xử phạt tù được hưởng án treo về hành vi cố ý gây thương tích nhưng không lấy đó làm bài học tu dưỡng, rèn luyện bản thân.

- Về tội danh: Từ căn cứ trên, xác định bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại Khoản 1, Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Như vậy, bản Cáo trạng số 533/CT-VKSBH ngày 04/11/2019 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và kết luận của Kiểm sát viên đề nghị truy tố bị cáo Trần Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo các điều khoản tương ứng nêu trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo là người rủ rê Trần Minh H1 cùng tham gia trộm cắp tài sản với mình. Trần Minh H1 là người chưa đủ 16 tuổi, nhận thức về pháp luật còn chưa đầy đủ nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội” được quy định tại điểm o, Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc trường hợp được quy định tại điểm s, Khoản 1, Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Vì vậy, cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Từ những nhận định trên, xét về tính chất, mức độ nguy hiểm, hậu quả của hành vi phạm tội gây ra, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo cũng như yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tội phạm, Hội đồng xét xử cần áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo Trần Ngọc T để đảm bảo sự nghiêm minh, khoan hồng của pháp luật và giáo dục, răn đe phòng ngừa chung.

[3] Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về dân sự:

Người bị hại chị Cao Thị H đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu bồi thường nên không xem xét.

[4] Về vật chứng:

- Đối với 01 máy tính xách tay hiệu Compaq, 01 chiếc xe mô tô hiệu Honda biển số 60F3-024.24 là những tài sản bị trộm cắp, đã được Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa thu hồi trả lại cho người bị hại là phù hợp quy định pháp luật.

- Đối với chiếc xe mô tô nhãn hiệu KAISER, màu đỏ, biển số 60Y1-2544, số máy 30010023 là phương tiện phạm tội. Qua xác minh, biển số 60Y1-2544 được Công an huyện L, tỉnh Đồng Nai cấp cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Thanh H3, ngụ tại Ấp 6, xã S, huyện L, tỉnh Đồng Nai sử dụng cho một chiếc xe mô tô có số máy khác với chiếc xe đã thu giữ, hiện anh H3 không có mặt tại địa phương. Xác minh số máy 30010023 được Công an tỉnh Bắc Giang cấp cho chiếc xe mang biển số 98L6-3624, chủ xe là Hà Trọng V, ngụ tại xóm E, xã A, huyện G, tỉnh Bắc Giang. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa đã có công văn ủy thác điều tra cho Công an huyện G, tỉnh Bắc Giang nhưng đến nay chưa có kết quả nên Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tách ra, tiếp tục làm rõ xử lý sau.

[5] Các vấn đề khác có liên quan đến nội dung vụ án:

- Đối với Trần Minh H1 là người cùng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản với Trần Ngọc T (H1 là người dùng xe mô tô chở T đi, là người đứng ngoài canh gác cho T, là người mang chiếc máy tính xách tay Compaq mà T trộm cắp được về nhà cất giấu). Tuy nhiên, Trần Minh H1 sinh ngày 24/10/2004, tính đến thời điểm phạm tội ngày 20/07/2019 H1 chưa đủ 16 tuổi. Do hành vi của H1 chưa đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hòa ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức cảnh cáo là phù hợp với quy định của pháp luật.

- Đối với Nguyễn Văn H2, sinh năm 1988 là người nhận cầm cố máy tính xách tay hiệu Compaq do T trộm cắp được, nhưng khi nhận cầm cố H2 không biết chiếc máy tính trên là do T trộm cắp được mà có nên Cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý là phù hợp với quy định của pháp luật.

[6] Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Nhận định về phần trình bày của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa:

- Đối với phần trình bày của Kiểm sát viên: Cáo trạng truy tố bị cáo về tội danh nêu trên và đề nghị mức hình phạt phù hợp nên được chấp nhận.

- Đối với trình bày của bị cáo được Hội đồng xét xử xem xét khi nghị án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Căn cứ Khoản 1, Điều 173; điểm s Khoản 1 Điều 51; điểm o, Khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Trần Ngọc T 01 (một) năm 08 (tám) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22 tháng 7 năm 2019.

2. Về án phí: Căn cứ Điều 135 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Buộc bị cáo Trần Ngọc T phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Người bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

126
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 530/2019/HS-ST ngày 18/11/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:530/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;