Bản án 528/2018/HS-PT ngày 25/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 528/2018/HS-PT NGÀY 25/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 25 tháng 9 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau – Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 412/2018/TLPT-HS ngày 26 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo Đỗ Việt A. Do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HSST ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 635/2018/QĐPT-HS ngày 31 tháng 8 năm 2018.

- Bị cáo có kháng cáo: Đỗ Việt A – sinh năm 1995; ĐKNKTT: Số 130A, LTK, khóm 4, phường 6, thành phố CM, tỉnh Cà Mau; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: 12/12; Nghề Ngệp: Sinh viên; Con ông: Đỗ Ngọc Sáu; Con bà: Phạm Thu Thiêm; Tiền án - Tiền sự: Không; Bị bắt quả tang, tạm giữ: Ngày 11/01/2016; Bị khởi tố, tạm giam từ ngày 20/01/2016 đến nay (có mặt).

- Người bào chữa cho bị cáo theo chỉ định: Luật sư Nguyễn Văn Nuôi – Đoàn luật sư tỉnh Cà Mau (có mặt).

 (Ngoài ra trong vụ án còn có bị cáo Nguyễn Hồng Ng không có kháng cáo, không bị kháng cáo kháng nghị nên Tòa không triệu tập).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các T liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 03 giờ 15 phút ngày 11/01/2016, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Cà Mau kết hợp Công an phường 6, thành phố CM bắt quả tang Đỗ Việt A vừa nhận xong 01 gói hàng hình chữ nhật, chiều dài khoảng 30 cm, chiều ngang khoảng 20 cm, bên ngoài hộp được bao bọc bằng lớp giấy cứng, có ghi tên người nhận là Việt A số điện thoại 0946.753.783 (Cà Mau) từ xe khách TV, biển kiểm soát 50ND - 048.30, chạy tuyến Thành phố Hồ Chí Minh – Cà Mau (nhận tại đoạn ngã ba Nhà thờ thuộc khóm 3, phường 6, thành phố CM). Kiểm tra bên trong hộp phát hiện và thu giữ 15 bịch nhựa trắng, trong, bên trong mỗi bịch nhựa có chứa đựng tinh thể trong suốt, dạng rắn, Ng là ma túy đá, được niêm phong (ký hiệu M.01/2016).

Qua điều tra ban đầu, Đỗ Việt A khai nhận còn đang cất giấu chất ma túy tại nhà, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp tại số nhà 130A, đường LTK, khóm 4, phường 6, thành phố CM, tỉnh Cà Mau và đã thu giữ của Đỗ Việt A thêm 21 bịch màu trắng, trong, bên trong có chứa tinh thể trong suốt, dạng rắn, Ng là ma túy đá và ma túy khác được niêm phong (03 bao niêm phong ký hiệu M.02/2016; M.03/2016; M.04/2016).

Tại kết luận giám định số 500/C54B ngày 12/01/2016 và Kết luận giám định số 507/C54B ngày 13/01/2016 của Phân viện khoa học hình sự (C54B) tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận các mẫu vật gửi trưng cầu giám định (nêu trên) đều có Methamphetamine và Ketamine có tổng trọng lượng 148,1837 gam, cụ thể như sau:

- Mẫu M.01/2016 trọng lượng 128,7866 gam có chất Methamphetamine.

- Mẫu M.02/2016 trọng lượng 0,5529 gam có Methamphetamine.

- Mẫu M.03/2016 trọng lượng 10,1200 gam có Ketamine.

- Mẫu M.04/2016 trọng lượng 8,7242 gam có Ketamine và Methamphetamine.

Quá trình điều tra thể hiện hành vi phạm tội của các bị cáo như sau:

1. Bị cáo Nguyễn Hồng Ng

Vào khoảng tháng 06 năm 2015, Nguyễn Hồng Ng từ Thành phố Hồ Chí Minh về Cà Mau, nghỉ tại khách sạn NA thuộc phường 5, thành phố CM. Tại đây, thông qua người bạn của Ng tên K (không rõ họ tên, địa chỉ cụ thể), Ng quen biết với Đỗ Việt A. Sau một thời gian quen biết, Ng nhờ Việt A đi gom tiền do Ng bán ma túy cho các đối tượng Nguyễn Kim Ng1, Huỳnh Thanh C, Huỳnh Tấn T (T Quan Công) và chuyển tiền qua Ng1 hàng theo các số Tài khoản khác nhau và chuyển qua dịch vụ xe TC, tại phường 6, thành phố CM, tỉnh Cà Mau cho Ng. Mỗi lần Việt A gom tiền của các đối tượng nêu trên chuyển qua các Tài khoản Ng1 hàng hoặc dịch vụ xe cho Ng thì Ng cho Việt A hưởng lợi từ 100.000 đồng đến 200.000 đồng.

Đến khoảng đầu tháng 11 năm 2015, do đã tin tưởng Việt A nên Ng kêu Việt A nhận ma túy của Ng mang giao bán cho các đối tượng tại Cà Mau và gom tiền chuyển cho Ng, Ng sẽ cho tiền Việt A để tiêu xài. Sau khi Việt A đồng ý, thì thời gian từ khoảng tháng 11 năm 2015 đến khi Việt A bị bắt, Ng đã bán và gửi chất ma túy cho Việt A được 06 lần, cụ thể như sau:

- Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 11 năm 2015 (không nhớ ngày) Ng từ Thành phố Hồ Chí Minh về tới khách sạn ĐB ở phường 6, Thành phố CM và điện thoại cho Việt A. Tại đây, Ng bán cho Việt A 05 bịch ma túy đá, giá mỗi bịch là 300.000 đồng và gửi thêm cho Việt A 05 hoặc 06 bịch ma túy đá nhờ Việt A mang về cất giữ để khi nào có ai liên hệ với Ng mua thì Ng sẽ điện thoại cho Việt A giao ma túy giùm cho Ng. Sau đó, Ng kêu Việt A giao ma túy cho C, T và kêu Việt A đi gom tiền chuyển qua các số Tài khoản do Ng cho Việt A biết (do thời gian đã lâu nên Ng không nhớ số tiền bán ma túy là bao nhiêu).

- Lần thứ hai: Khoảng trong tháng 11 năm 2015 cách lần thứ nhấtài khoảng năm đến bảy ngày, Ng gửi ma túy qua dịch vụ xe TV tại Thành phố Hồ Chí Minh về Cà Mau cho Việt A 05 bịch ma túy đá nhỏ và khoảng 06 bịch ma túy đá lớn. Trong số này, Ng bán cho Việt A 05 bịch nhỏ với giá mỗi bịch là 300.000 đồng và cho Việt A nợ. Số còn lại, Ng kêu Việt A giao cho C.

- Lần thứ ba: Khoảng cuối tháng 11 năm 2015 (không nhớ ngày), Ng gửi ma túy đá về bán cho Việt A 10 bịch nhỏ giá mỗi bịch 300.000 đồng và gửi kèm cho Việt A 06 bịch ma túy đá lớn rồi điện thoại kêu Việt A giao bán cho Cần mỗi bịch từ 3.400.000 đồng đến 7.500.000 đồng tùy theo bịch lớn nhỏ. Qua ngày hôm sau, Ng kêu Việt A đi gom tiền của C chuyển cho Ng.

- Lần thứ tư: Khoảng cuối tháng 12 năm 2015, Ng về khách sạn ĐB và điện thoại cho Việt A, kêu Việt A mang giấy chứng minh nhân dân của Việt A đến thuê phòng giùm cho Ng vì Ng quên mang theo giấy chứng minh nhân dân. Lần này có V là bạn trai của Ng quê ở tỉnh Trà Vinh và tên A1 (Quậy) nhà ở Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh (là người đã cung cấp, bán chất ma túy cho Ng) cùng đi chung với Ng. Đến sáng ngày hôm sau, Việt A đến chơi và mua thức ăn, nước uống cho Ng, sau đó có T và Ng1 cùng đến. Tại đây, Ng bán cho T một bịch ma túy đá với giá tiền là 7.000.000 đồng; bán cho Ng1 01 bịch ma túy đá với giá tiền 3.800.000 đồng; bán cho Việt A khoảng 07 bịch ma túy đá nhỏ, mỗi bịch là 300.000 đồng và Ng gửi thêm cho Việt A 20 bịch ma túy đá mang về nhà cất giữ để khi nào có ai mua thì Ng liên hệ kêu Việt A giao bán rồi gom tiền gửi cho Ng.

- Lần thứ năm: Khoảng đầu tháng 01 năm 2016, Ng gửi 06 hoặc 07 bịch ma túy đá về cho Việt A qua dịch vụ xe vận tải Sài Gòn. Sau đó, Ng kêu Việt A giao bán cho C, Ng1, T rồi đi gom tiền mang qua Phường 8 đưa cho bà Nguyễn Thị Ph là mẹ của Ng 15.000.000 đồng, số còn lại chuyển lên cho Ng.

- Lần thứ sáu: Ng bỏ ma túy đá vào một hộp giấy cứng hình chữ nhật, bên trong có nhiều bịch bánh sôcôla trong 04 (bịch) bánh có đựng 15 bịch ma túy đá, bên ngoài hộp ghi người nhận Việt A số điện thoại 0946753783 (Cà Mau) rồi gửi xe TV về Cà Mau. Nguồn ma túy có để gửi về Cà Mau cho Việt A lần này là do Ng mua của tên A1 (Quậy), nhà ở Quận 4, Thành phố Hồ Chí Minh có vợ tên Nguyễn Hồng X. Sau đó, Ng hay tin Việt A bị bắt.

Đối với số ma túy Ng gửi cho Việt A mang về nhà cất giấu, khi có ai mua thì Ng liên hệ kêu Việt A giao bán còn cụ thể bán cho ai, bao nhiêu bịch, giá tiền bao nhiêu là do Ng quyết định, Việt A không được tự ý giao bán khi chưa có ý kiến của Ng.

Ngoài việc bán ma túy cho Việt A và gửi ma túy cho Việt A để Việt A giao bán như đã nêu trên, thì Ng còn nhiều lần trực tiếp liên hệ và giao bán ma túy cho các đối tượng Huỳnh Thanh C, Huỳnh Tấn T, Nguyễn Kim Ng1, Nguyễn Bình Phương V1 (V1 Duy) và Lê Văn H bằng nhiều hình thức ở các địa điểm khác nhau như sau:

- Đối với Huỳnh Thanh C:

+ Lần thứ nhất: Vào ngày tháng không nhớ trong năm 2015, Ng từ Thành phố Hồ Chí Minh về Cà Mau và nghỉ trọ ở phường 8, thành phố CM. Lần này Ng bán cho C nửa bịch ma túy đá với giá 2.000.000 đồng.

+ Lần thứ hai: Cách lần trước khoảng 7 ngày, Ng gửi ma túy qua dịch vụ xe TV từ Thành phố Hồ Chí Minh về Cà Mau bán cho C 01 bịch ma túy đá, không nhớ bao nhiêu tiền.

- Đối với Huỳnh Tấn T (T Quan Công):

+ Lần thứ nhất: Khoảng tháng 11 năm 2015, tại nhà của Ken ở phường 8, thành phố CM, Ng bán cho T nửa bịch ma túy giá tiền khoảng 3.000.000 đồng.

+ Lần thứ hai: Khoảng tháng 12 năm 2015, T liên hệ với Ng mua 01bịch ma túy đá và xin thiếu nợ lại tiền, sau đó Ng kêu T chạy xe qua khách sạn ở tỉnh Trà Vinh và bán cho T 01 bịch ma túy đá và gửi cho T 02 bịch ma túy đá mang về giao cho Ng1 và Cần.

+ Lần thứ ba: Khoảng đầu tháng 01 năm 2016, Ng về khách sạn ĐB ở phường 6, thành phố CM, tỉnh Cà Mau (lần nhờ Việt A dùng chứng minh nhân dân thuê phòng cho Ng). Lần này, Ng bán cho T 01 bịch ma túy đá, giá tiền 7.000.000 đồng.

+ Lần thứ tư: Khoảng cuối tháng 01 năm 2016, T liên hệ với Ng mua 01 bịch ma túy đá và xin nợ lại tiền. Ng kêu T lên Thành phố Hồ Chí Minh đến hẻm 163, THT, Quận 10. Khi T đến Thành phố Hồ Chí Minh điện thoại cho Ng, sau đó Ng nhờ Đoàn Thị Thanh Th là người chạy xe Honda khách ra đầu hẻm chở T vào phòng trọ của Ng. Tại đây, Ng bán cho T 01 bịch ma túy đá giá tiền 7.500.000 đồng và gửi cho T mang 02 bịch ma túy đá về Cà Mau giao cho C và Ng1 mỗi người 01 bịch, về tiền mua bán ma túy thì giữa Ng và Ng1, Cần thanh toán với nhau.

- Đối với Nguyễn Kim Ng1:

+ Lần thứ nhất: Khoảng tháng 12 năm 2015, trong lần Ng kêu T lên khách sạn ở Trà Vinh để bán ma túy cho T thì Ng có gửi cho T 01 bịch ma túy đá mang về giao cho Ng1, lần bán ma túy này Ng kêu Ng1 trả tiền cho Việt A để chuyển cho Ng.

+ Lần thứ hai: Ng về khách sạn ĐB ở phường 6, thành phố CM thời gian khoảng đầu tháng 01 năm 2016 (lần Ng nhờ Việt A mang giấy chứng minh nhân dân thuê phòng cho Ng). Tại đây, Ng trực tiếp bán cho Ng1 01 bịch ma túy đá giá tiền 3.800.000 đồng, Ng1 trả tiền mặt cho Ng.

+ Lần thứ ba: Trong lần T đến hẻm 163 THT, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh mua ma túy của Ng thì Ng có gửi cho T mang về bán cho Ng1 01 bịch ma túy đá, sau đó Ng1 đưa tiền cho Cần để Cần chuyển cho Ng.

- Đối với Lê Văn H:

+ Lần thứ nhất: Khoảng đầu tháng 03 năm 2016, Học liên hệ với Ng mua 01 bịch ma túy đá. Ng gửi ma túy cho H qua dịch vụ xe TV hoặc VT 01 bịch ma túy với giá tiền 3.800.000 đồng.

+ Lần thứ hai: Vào khoảng giữa tháng 03 năm 2016, Ng điện thoại cho Nguyễn Bình Phương V1 (V1 Duy) nhờ V1 đến xe khách MH nhận 01 bịch ma túy đá được gói trong quần áo, trong số đó Ng bán cho V1 01 bịch giá 7.500.000 đồng (Ng cho V1 nợ) và nhờ V1 mang bán cho Học 01 bịch.

+ Lần thứ ba: Khoảng giữa tháng 04 năm 2016, Ng gửi ma túy qua dịch vụ xe MH để bán cho H. Lần này Ng điện thoại nhờ Nguyễn Bình Phương V1 đến trạm xe MH ở huyện TB, tỉnh Cà Mau nhận giùm cho Ng 02 bịch ma túy đá giao cho Học với giá tiền khoảng 20.000.000 đồng, H đã chuyển tiền trả cho Ng.

- Đối với Nguyễn Bình Phương V1 (V1 Duy):

+ Lần thứ nhất: Ng gửi ma túy từ Thành phố Hồ Chí Minh về Cà Mau qua dịch vụ xe khách VT hoặc MH (không nhớ rõ) bán cho V1 01 bịch ma túy đá với giá tiền 7.500.000 đồng (V1 nợ lại tiền) và nhờ V1 nhận ma túy về giao cho Học và Cần.

+ Lần thứ hai: Vào khoảng giữa tháng 04 năm 2016, Ng gửi ma túy qua dịch vụ xe TV và bán cho V1 khoảng 04 hoặc 05 bịch ma túy đá và lần này cho V1 thiếu nợ lại tiền.

Quá trình điều tra xác định Việt A đã chuyển qua các tài khoản mang tên Trương Thị Thanh Th1, Nguyễn Thị Thùy D, Nguyễn Hồng X, Nguyễn Bích Tr, Nguyễn Trung V2, Huỳnh Thị Mai H1 cho Nguyễn Hồng Ng với tổng số tiền 632.500.000 đồng và chuyển qua dịch vụ xe TC là 279.205.000 đồng.

2. Bị cáo Đỗ Việt A

Ngoài các lần nhận và bán ma túy giúp Nguyễn Hồng Ng như đã nêu trên, Việt A còn bán ma túy cho các đối tượng sau:

- Lê Văn T1 (là bạn học của Việt A): Từ khoảng tháng 11 năm 2015 đến tháng 01 năm 2016, Lê Văn T1 đã cùng Lê Ngọc Ng2, Hồ Văn Th2 (bạn học cùng lớp) hùn tiền và mua ma túy đá của Đỗ Việt A khoảng 15 lần, giá mỗi bịch từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng để sử dụng.

- Lê Ngọc Nghĩa (là bạn học của Việt A): Từ khoảng tháng 11 đến đầu tháng 01 năm 2016, Nghĩa đã trực tiếp mua ma túy đá của Đỗ Việt A 02 lần để sử dụng. Ngoài ra, Ng2 còn hùn tiền cùng với Lê Văn T1 khoảng 10 lần để mua ma túy đá của Đỗ Việt A sử dụng cùng với T1, giá mỗi bịch từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng.

- Phạm Hoàng Ph1 (là bạn học của Việt A): Từ khoảng tháng 11 năm 2015 đến đầu tháng 01 năm 2016, Ph1 đã trực tiếp mua ma túy đá của Đỗ Việt A 04 lần để sử dụng. Ngoài ra, Ph1 còn hùn tiền mua ma túy và mua giùm ma túy đá cho các đối tượng Quách Trọng Nh, Tạ Trí Th3, Nguyễn Tài Ng3 nhiều lần khác, giá mỗi bịch từ 400.000 đồng đến 500.000 đồng.

- Tạ Trí Th3 (bạn học của Việt A): Trong tháng 12 năm 2015, đã mua ma túy đá của Việt A 01 lần để sử dụng và còn 01 lần khác cùng hùn tiền và nhờ Phạm Hoàng Ph1 mua ma túy đá của Việt A để sử dụng.

- Nguyễn Tài Ng3 (bạn của Phi): Từ tháng 12 năm 2015 đến tháng 01 năm 2016, đã mua ma túy đá của Việt A 03 lần để sử dụng và 02 lần Ng3 nhờ Ph1 mua ma túy đá của Việt A để sử dụng.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HSST ngày 12/6/2018, Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau đã quyết định:

Tuyên bố: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Hồng Ng, Đỗ Việt A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng: Điều 53; Điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 194; khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Việt A 13(Mười ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/01/2016. Phạt tiền bổ sung bị cáo Đỗ Việt A 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Ngoài ra bản án sơ thẩm còn quyết định về hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Hồng Ng; tiền thu lợi bất chính, xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo vụ án theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm; ngày 20/6/2018, bị cáo Đỗ Việt A có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù với lý do mức án sơ thẩm xét xử các bị cáo là quá nặng.

Ngày 26/6/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau có quyết định kháng nghị một phần bản án sơ thẩm đề nghị không áp dụng Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 và tăng hình phạt đối với bị cáo Đỗ Việt A.

Tại phiên tòa phúc thẩm:

Bị cáo Đỗ Việt A xin rút lại yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận việc rút kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo, đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo. Đối với kháng nghị yêu cầu tăng hình phạt của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm a khoản 2 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự 2015; chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau theo hướng sửa bản án sơ thẩm; không áp dụng Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 và tăng hình phạt đối với bị cáo Đỗ Việt A, xử phạt bị cáo Đỗ Việt A từ 14 đến 15 năm tù.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Anh có ý kiến: Sau khi phạm tội bò caùo ñaõ thậât thaø khai baùo vaø aên naên hoái caûi, gia đình có công với cách mạng; bị cáo thực hiện hành vi với vai trò đồng phạm giúp sức cho bị cáo Ng; mức án Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo 13 năm tù là phù hợp và bị cáo đã rút kháng cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác toàn bộ quyết định kháng của viện Trưởng viện kiển sát nhân dân tỉnh Cà Mau; giữ nguyên bản án sơ thẩm đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các T liệu,chứng cứ có tại hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Anh rút toàn bộ yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy, việc rút yêu cầu kháng cáo của bị cáo là tự nguyện và phù hợp với quy định của pháp luật nên chấp nhận.

Quyết định kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau trong hạn luật định nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về tố tụng: Quá trình điều tra, cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng theo trình tự quy định định của Bộ luật Tố tụng hình sự, không có dấu hiệu ép cung, nhục hình.

 [2] Về nội dung: Vào lúc 03 giờ 15 phút ngày 11/01/2016, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy - Công an tỉnh Cà Mau kết hợp Công an phường 6, thành phố CM bắt quả tang Đỗ Việt A vừa nhận xong 01 gói hàng hình chữ nhật, chiều dài khoảng 30 cm, chiều ngang khoảng 20 cm, bên ngoài hộp được bao bọc bằng lớp giấy cứng, có ghi tên người nhận là Việt A số điện thoại 0946753783 (Cà Mau) từ xe khách TV, biển kiểm soát 50ND – 048.30, chạy tuyến Thành phố Hồ Chí Minh – Cà Mau (nhận tại đoạn ngã ba Nhà thờ thuộc khóm 3, phường 6, thành phố CM). Kiểm tra bên trong hộp phát hiện và thu giữ 15 bịch nhựa trắng, bên trong mỗi bịch nhựa có chứa đựng tinh thể trong suốt, dạng rắn, Ng là ma túy đá, được niêm phong (ký hiệu M.01/2016).

 [2.1] Qua điều tra ban đầu, Đỗ Việt A khai nhận còn đang cất giấu chất ma túy tại nhà, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp tại số nhà 130A, đường LTK, khóm 4, phường 6, thành phố CM, tỉnh Cà Mau và đã thu giữ của Đỗ Việt A thêm 21 bịch màu trắng, trong, bên trong có chứa tinh thể trong suốt, dạng rắn, Ng là ma túy đá và ma túy khác được niêm phong (03) bao niêm phong ký hiệu M.02/2016; M.03/2016; M.04/2016).

 [2.2] Tại kết luận giám định số 500/C54B ngày 12/01/2016; Kết luận giám định số 507/C54B ngày 13/01/2016 và Công văn trả lời số 312, 313/CV/C54B cùng ngày 21/10/2016 của Phân viện khoa học hình sự (C54B) tại Thành phố Hồ Chí Minh, kết luận các mẫu vật gửi trưng cầu giám định được ký hiệu M.01/2016, M.02/2016, M.03/2016, M.04/2016 đều có Methamphetamine và Ketamine có tổng trọng lượng 148,1837 gam. (Cụ thể như sau: Mẫu M.01/2016 trọng lượng 128,7866 gam có chất Methamphetamine; Mẫu M.02/2016 trọng lượng 0,5529 gam có Methamphetamine; Mẫu M.03/2016 trọng lượng 10,1200 gam có Ketamine; Mẫu M.04/2016 trọng lượng 8,7242 gam có Ketamine và Methamphetamine).

 [3] Tại phiên tòa bị cáo Đỗ Việt A thừa nhận mua ma túy của Ng và nhận ma túy của Ng cất giữ hộ, bị cáo không thừa nhận hành vi bán ma túy. Tuy nhiên, ngay sau khi bị bắt quả tang, quá trình tạm giữ, tạm giam bị cáo đã khai nhận nhiều lần nhận và chuyển tiền cho Ng, nhiều lần nhận và mua ma túy của Ng, sau đó mang đi giao, bán cho các đối tượng khác như: C, Ng1, Tài Ng3, Ph1, Nh, T1 và Ng2 tại nhiều địa điểm trên địa bàn thành phố CM (Thể hiện tại các lời khai BL 342, 344, 346, 348, 350, 352, 354, 360, 362 và biên bản tự khai của bị cáo tự viết). Bị cáo Nguyễn Hồng Ng khai: Bị cáo chuyển ma túy cho Đỗ Việt A và kêu bị cáo Đỗ Việt A bán cho các đối tượng khác, sau đó gom tiền bán ma túy chuyển cho bị cáo và bị cáo cho Đỗ Việt A tiền công còn việc bị cáo Đỗ Việt A có mua ma túy và tự bán lại hay không thi bị cáo không biết. Cơ quan điều tra cũng đã cho đối chất giữa bị cáo Đỗ Việt A và các đối tượng mua ma túy, các đối tượng này đều thừa nhận có nhiều lần mua ma túy của Đỗ Việt A. Như vậy, lời khai ban đầu của bị cáo Đỗ Việt A phù hợp hoàn toàn với lời khai của bị cáo Nguyễn Hồng Ng, các đối tượng có liên quan, bản tự khai của bị cáo, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết quả giám định, và các chứng cứ tại liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

 [3.1] Bị cáo Đỗ Việt A nhận thức rõ chất ma túy là chất gây nghiện, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, phát sinh tệ nạn xã hội và là một trong những nguyên nhân lây truyền bệnh, làm giảm sức lao động, tạo gánh nặng cho xã hội. Bị cáo thực hiện hành vi mua bán ma túy cho nhiều người, mục đích thu lợi bất chính, số tiền thu lợi rất lớn.

 [3.2] Bị cáo Đỗ Việt A là người thực hành và giúp sức tích cực cho Ng trong việc nhận ma túy giao lại cho các đối tượng khác, thu tiền, chuyển tiền cho bị cáo Ng để được trả tiền công. Đồng thời, bị cáo còn bán ma túy lẻ vài lần cho các đối tượng khác, mỗi lần với giá vài trăm ngàn đồng nhưng không xác định được khối lượng ma túy là bao nhiêu. Quá trình điều tra ban đầu bị cáo thành khẩn nhưng sau đó thay đổi lời khai, tại phiên tòa bị cáo còn quanh co, chưa thành khẩn, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án, nên cần có một hình phạt tương xứng với hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo.

 [4] Xét kháng nghị đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Đỗ Việt A; Hội đồng xét xử xét thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là hết sức nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về ma túy, hành vi của bị cáo chính là tiền đề làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo như bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức, gia đình bị cáo có công với cách mạng. Tuy nhiên, bị cáo A đã tham gia mua bán ma túy nhiều lần với số lượng lớn, ngoài ra bị cáo đã tham gia giúp sức tích cực cho bị cáo Ng rất nhiều lần nhưng án sơ thẩm áp dụng Điều 53 Bộ luật hình sự năm 1999 xử bị cáo 13 năm tù là có phần nhẹ chưa tương xứng với tính chất hành vi và hậu quả do bị cáo gây ra. Hội đồng xét xử xét thấy, hiện nay tình hình tội phạm ma túy trên địa bàn tỉnh Cà Mau cũng như ở các địa phương khác ngày một gia tăng, các bị cáo mua bán ma túy ngày càng tinh vi. Mặt khác, tôi phạm ma túy để lại hệ lụy rất lớn cho xã hội, là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác. Vì vậy, cần xử bị cáo mức án thật Ngêm để có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung cho toàn xã hội.

Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau cũng như đề nghị của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa, sửa bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo Anh.

 [5] Về án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo không phải chịu.

 [6] Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355 và điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

1/Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với yêu cầu kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Đỗ Việt A.

2/ Chấp nhận quyết định kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 30/2018/HSST ngày 12 tháng 6 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Việt A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm e khoản 3, khoản 5 Điều 194; khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Xử phạt: Bị cáo Đỗ Việt A 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/01/2016. Phạt tiền bổ sung bị cáo Đỗ Việt A 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng). Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

3/ Án phí hình sự phúc thẩm: Bị cáo Đỗ Việt A không phải chịu.

4/ Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

286
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 528/2018/HS-PT ngày 25/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:528/2018/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;