Bản án 525/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CỦ CHI, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 525/2020/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN 

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 88/2020/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 01 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 144/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 5 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 136/2020/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trịnh Thị Ngọc Đ, sinh năm: 1992 (Có mặt).

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Số X đường L, ấp R, xã T, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.

2. Bị đơn: Ông Nhữ Đình D, sinh năm: 1988 (Vắng mặt).

Tạm trú: Tổ 6, ấp B, xã M, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn xin ly hôn nộp ngày 13/12/2019 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn là bà Trịnh Thị Ngọc Đ trình bày:

Bà và ông Nhữ Đình D tự nguyện xây dựng gia đình vào 2016 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện C.

Sau khi xây dựng gia đình, bà và ông D sống bên nhà cha mẹ vợ tại xã T, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh, cuộc sống vợ chồng hạnh phúc được một thời gian, đến năm 2017 vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẩn nguyên nhân do ông D không quan tâm, chăm lo cho gia đình, suốt ngày nhậu, không lo làm ăn, ông D còn nhiều lần chửi mắn bà nên vợ chồng thường xuyên cải vả. Từ năm 2017 ông D đã dọn đi đến xã M, huyện C ở trọ. Hiện nay hai bên không còn quan tâm gì đến nhau, bà nhận thấy tình cảm bà dành cho ông D không còn nên không thể hàn gắn, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà ly hôn.

Bà và ông D có 01 con chung tên Nhữ Thị Kim N, sinh ngày 27/02/2017. Hiện nay con chung đang sống chung với bà, bà yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung, bà không yêu cầu anh D cấp dưỡng.

Về tài sản chung bà trình bày không có, nợ chung không có.

* Bị đơn là ông Nhữ Đình D vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Tại đơn xin ly hôn nộp ngày 13/12/2019, bà Trịnh Thị Ngọc Đ yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Củ Chi giải quyết cho bà ly hôn với ông Nhữ Đình D, yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung không có và nợ chung không có. Đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình được quy định tại Khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, ông Nhữ Đình D hiện đang cư trú tại Tổ 6, ấp B, xã M, huyện C, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân huyện Củ Chi theo Điểm a Khoản 1 Điều 35 và Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: Ông Nhũ Đình D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hoà giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa nhưng vẫn không đến Tòa. Do đó, Hội đồng xét xử quyết định vẫn tiến hành phiên Tòa vắng mặt ông Nhữ Đình D theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

[3] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Trịnh Thị Ngọc Đ và ông Nhữ Đình D tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 33 do Ủy ban nhân dân xã T, huyện C cấp ngày 17/4/2017, đây là hôn nhân hợp pháp.

Xét trình bày của bà Đ thì sau khi xây dựng gia đình vào năm 2016, hai bên chung sống hạnh phúc tại nhà cha mẹ vợ, sống hạnh phúc một thời gian thì đến năm 2017, D không quan tâm, chăm lo cho gia đình, suốt ngày nhậu, không lo làm ăn, ông D còn nhiều lần chửi mắn bà nên vợ chồng thường xuyên cải vả, bà và ông D đã ly thân từ năm 2017, hai bên không còn quan tâm đến nhau, mục đích hôn nhân không đạt nên yêu cầu được ly hôn.

Xét ông Nhữ Đình D không đến Tòa án theo giấy triệu tập để cung cấp lời khai, điều đó cho thấy ông D không có thiện chí muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng cùng với bà Đ, do đó Hội đồng xét xử chỉ xem xét các chứng cứ do bà Đ cung cấp, bà Đ và ông D không còn chung sống cùng chung một địa chỉ, do đó Hội đồng xét xử xét không cần thiết phải xác minh về tình trạng hôn nhân của ông bà tại địa phương theo quy định tại Điều 208 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Xét tình trạng quan hệ vợ chồng giữa bà Đ và ông D đã đến mức trầm trọng, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài được, mục đích hôn nhân không đạt, căn cứ Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận cho bà Trịnh Thị Ngọc Đ được ly hôn với ông Nhữ Đình D là có cơ sở.

[4] Về con chung:

Bà Đ và ông D 01 con chung tên Nhữ Thị Kim N, sinh ngày 27/02/2017. Bà Đ yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con. Xét ông D không đến Tòa để đưa ra ý kiến về con chung, cháu Ngân hiện đang sống chung với bà Đ, để ổn định tâm sinh lý của con chung, Hội đồng xét xử giao cháu Ngân cho bà Đ trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Bà Đ không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con, xét đây là sự tự nguyện của bà Đ, không trái pháp luật nên ghi nhận ý kiến này. Nếu sau này bà Đ có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con sẽ được Tòa án giải quyết ở một vụ án khác.

[5] Về tài sản chung: Bà Đ trình bày không có.

[6] Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà Đ trình bày không có.

[7]Về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xét buộc bà Trịnh Thị Ngọc Đ phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Điều 146, Điều 227, Điều 228, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Điều 9, Điều 14, Khoản 2 Điều 53, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 6, Điều 7, Điều 26, Điều 30, Điều 31 và Điều 32 của Luật Thi hành án Dân sự năm 2008;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân:

Cho ly hôn giữa bà Trịnh Thị Ngọc Đ và ông Nhữ Đình D.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, Giấy chứng nhận kết hôn số 33 do Ủy ban nhân dân xã Trung Lập Thượng, huyện Củ Chi cấp ngày 17/4/2017 cho ông Nhữ Đình D và bà Trịnh Thị Ngọc Đ không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung:

Bà Trịnh Thị Ngọc Đ và ông Nhữ Đình D có 01 con chung tên Nhữ Thị Kim N, sinh ngày 27/02/2017. Giao cháu Nhữ Thị Kim N cho bà Trịnh Thị Ngọc Đ trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của bà Đ về việc tạm thời không yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Trường hợp người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi dưỡng con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, yêu cầu của cá nhân, tổ chức theo quy định tại Khoản 5 Điều 84, Khoản 2 Điều 116 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc việc trợ cấp cho việc nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về chia tài sản chung: Bà Đ trình bày không có.

4. Về nghĩa vụ dân sự chung: Bà Đ trình bày không có.

5. Về án phí sơ thẩm: Bà Trịnh Thị Ngọc Đ phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số AA/2019/0083339 ngày16/01/2020 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Củ Chi.

Thi hành tại cơ quan Thi hành án Dân sự có thẩm quyền.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 của Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật Thi hành án Dân sự.

6. Bà Trịnh Thị Ngọc Đ có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Nhữ Đình D vắng mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 525/2020/HNGĐ-ST ngày 30/06/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:525/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Củ Chi - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;