Bản án 52/2024/HS-ST về tội gây rối trật tự công cộng

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 52/2024/HS-ST NGÀY 02/04/2024 VỀ TỘI GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG

Ngày 02 tháng 4 năm 2024, tại trụ sở Tòa án Nh dân quận B, thành phố H xet xư sơ thâm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 42/2024/TLST- HS ngày 02 thang 02 năm 2024 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2024/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 3 năm 2024 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Quang M, sinh ngày 12 tháng 9 năm 2004 tai H. Nơi ĐKNKTT: Số 105/44 Trần Nguyên Hãn, phường Trần Nguyên Hãn, quận Lê Chân, thành phố H; nơi ở hiện nay: Số 9C70 phường Trại Chuối, quận B, thành phố H; nghề nghiêp: sinh viên; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Hồng Phương và bà Khúc Thị M Trang; chưa có vợ, con; Nh thân, tiền án, tiền sự: không. Bị cáo bị áp dụng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 11/10/2023 đến nay; có mặt.

2. Đinh M Châu Nh, sinh ngày 19 tháng 7 năm 2003 tai H. Nơi ĐKNKTT: Số 30 gác 2 Trạng Trình, phường Phan Bội Châu, quận B, thành phố H; nơi ở hiện nay: Số 8 gác 2 ngõ 1 Hoàng Ngân, phường Phan Bội Châu, quận B, thành phố H; nghề nghiêp: Không; trình độ văn hóa: Lớp 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đinh Mạnh Hùng và bà Nguyễn Thị Nhung; chưa có vợ, con; Nh thân: Bản án số 138/2023/HS-ST ngày 21/12/2023, Tòa án Nh dân huyện An Dương, thành phố H xử phạt 04 năm tù về tội Cướp tài sản, tiền án: Bản án số 08/2023/HS-ST ngày 15/3/2023, Tòa án Nh dân quận Dương Kinh, thành phố H xử phạt 04 tháng tù về tội Gây rối trật tự công cộng, tiền sự: không; Bị cáo bị tạm giam từ ngày 18/7/2023 theo bản án số 138/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án Nh dân huyện An Dương; có mặt.

- Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Phạm Quốc Tr, sinh ngày 20/4/2004; nơi cư trú: Số 470 Tôn Đức Thắng, xã An Đồng, huyện An Dương, thành phố H; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Chu Anh T; chị Nguyễn Thu Th; anh Trần Quang A; chị Nguyễn Thị Khánh L; chị Phạm Ngọc A1; anh Phạm Đoàn Huy H; đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do có mâu thuẫn từ trước nên Nguyễn Đức Q, sinh năm: 2006, nơi thường trú: Số 9/129 Quốc lộ 5, Cam Lộ 6, Hùng Vương, B, H và Nguyễn Quang M đã hẹn gặp nhau vào tối ngày 16/4/2023 tại khu vực cửa hàng Circle-K, địa chỉ: căn hộ BH 02-01, Khu đô thị Vinhomes Imperia, Thượng Lý, B, H để nói chuyện, giải quyết mâu thuẫn.

Khoảng 18h, ngày 16/4/2023 M chuẩn bị 01 thanh kiếm và 01 gậy bóng chày đựng trong túi vải để ở võng xe mô tô rồi gọi điện rủ Đinh M Châu Nh đến khu vực bờ đê phường Trại Chuối để đi có việc. Khi Nh đến nơi M rủ Nh đi cùng để giải quyết mâu thuẫn với Q, Nh đồng ý. M tiếp tục gọi điện cho Chu Anh T, sinh năm 2004; nơi thường trú: số 4 C32 Cử Bình, Trại Chuối, B, H bảo đến cửa hàng Cirkle có việc (M không nói với Tú việc đi giải quyết mâu thuẫn với nhóm của Q), do Tú không có xe nên M và Nh mỗi người đi 01 xe mô tô đến để đón T tại khu đô thị Hoàng Huy, Thượng Lý, B, H. Khi đến nơi T đang đứng cùng Nguyễn Thu Th, sinh năm 2004; nơi thường trú: số 18 Nguyên Hồng, Lam Sơn, Lê Chân, H. Nh đưa xe để Tú chở Thuỷ, M chở Nh, cả 4 cùng nhau đi đến cửa hàng Cirkle-K Vinhome Imperia. Khi đi đến khu vực vòng xuyến Thượng Lý- Trại Chuối, M tiếp tục gọi điện cho Trần Quang A, sinh năm 2003; nơi thường trú: số 24/66 Trần Phú, Ngô Q, H bảo đến quán Cirkle- K có việc (M không nói với Quang Anh việc đi giải quyết mâu thuẫn với nhóm của Q), Quang Anh đồng ý. Cả nhóm gặp nhau tại khu vực Vinhome Imperia và cùng đi về quán Cirkle. Lúc này tại khu vực vỉa hè của quán đã có nhóm của Q gồm: Phạm Quốc Tr, sinh năm 2004; nơi cư trú: số 470 Tôn Đức Thắng; Nguyễn Thị Khánh L (sinh năm 2003, nơi thường trú: số 18/129 Quốc Lộ 5, Cam Lộ 6, Hùng Vương, B, H); Phạm Ngọc A1 (sinh năm 2004, nơi thường trú: số 15CT55 Tôn Đản, Phan Bội Châu, B, H); Phạm Đoàn Huy H (sinh năm 2006, nơi thường trú: số 111 Đê Quai Chảo, Sở Dầu, B, H) đã đến điểm hẹn trước (khi đi nhóm của Q không mang theo hung khí gì, mục đích đi để gặp nhau nói chuyện hoà giải).

Khi tới nơi nhóm của M đỗ xe ở lòng đường gần khu vực cửa hàng Cirkle- K. Tú đi vào trước, do có quen biết với Tr nên đã đứng nói chuyện, còn Thuỷ đi vào mua đồ. M và Nh đi vào sau, Quang A đi sau cùng. Khi đi Nh lấy 01 thanh kiếm ở võng xe của M giấu phía sau lưng rồi cùng M đi bộ về phía nhóm của Q. Khi đến gần nhóm của Q, M đưa tay phải ra phía sau lấy kiếm từ tay Nh. Sau đó M rút kiếm ra khỏi bao nhìn về phía Q đang đứng rồi nói “Thằng nào” đồng thời cầm kiếm lao về phía Q định đánh Q thì Tr lao vào dùng tay đẩy M ra xa để can ngăn và bảo M “Em có gì từ từ nói chuyện”. M bảo “Tao bằng vai phải lứa với mày sao mà phải nói chuyện” còn Nh bảo “Mày đánh bạn tao à” và dùng tay trái đấm 01 phát trúng vào miệng của Tr. Đồng thời M cầm kiếm bằng tay phải chém 01 nhát trúng vào vùng thái dương trái của Tr làm chảy máu. Sau đó M không chém nữa mà bảo Nh ra xe lấy gậy bóng chày, mục đích sẽ tiếp tục đánh nhau nếu nhóm của Tr đánh lại. Nh chạy ra võng xe để lấy gậy bóng chày. Lúc này bảo vệ cửa hàng Circle- K vào can ngăn nên cả nhóm M rời khỏi quán còn Tr được đưa đi cấp cứu. Trên đường về M cất giấu gậy và kiếm vào khu vực hồ Hưng Long, phường Trại Chuối, quận B. Cơ quan điều tra đã tiến hành rà soát, truy tìm các hung khí trên nhưng không thu hồi được.

Tại bản Kết luận giám định tổn thương cơ thể trên người sống số:

237/2023/KLTTCT-TTPYHP ngày 24/4/2023 của Trung tâm pháp y H kết luận: tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể của anh Phạm Quốc Tr do vết thương vùng thái dương đỉnh trái gây nên tại thời điểm giám định là: 02% (hai phần trăm). Thương tích có đặc điểm do vật sắc tác động trực tiếp gây nên.

Ngày 14/5/2023 Phạm Quốc Tr có đơn yêu cầu khởi tố vụ án hình sự. Ngày 13/7/2023 anh Tr rút đơn đề nghị yêu cầu khởi tố vụ án hình sự.

Tại cơ quan điều tra M, Nh khai nhận như nội dung trên: khi M nói chuyện nhờ Nh đi giải quyết mâu thuẫn, Nh hiểu sẽ đi đánh nhau với nhóm của Q, Nh có thấy và được M thông báo mang theo hung khí; khi M nói với Tú và Quang Anh là đi có việc, M không nói cho cả 2 biết việc đi giải quyết mâu thuẫn.

Tại cơ quan điều tra Tú, Quang Anh khai nhận như nội dung nêu trên cả hai không biết việc M chuẩn bị hung khí để đi đánh nhau với nhóm của Q mà chỉ nghĩ M rủ cùng đi chơi nói chuyện. Khi xảy ra đánh nhau Tú có can ngăn còn Quang Anh đứng ngoài không tham gia.

Về trách nhiệm dân sự: Phạm Quốc Tr đã được Nguyễn Quang M bồi thường và không có yêu cầu gì thêm.

Về vật chứng, tài liệu thu giữ: không.

Tại Cáo trạng số 16/CT-VKSHB, ngày 21-01-2024, Viện Kiểm sát Nh dân quận B, thành phố H truy tố bị cáo Nguyễn Quang M và Đinh M Châu Nh về tội “Gây rối trật tự công cộng” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện Kiểm sát Nh dân quận B đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Đinh M Châu Nh từ 02 (Hai) năm 03 (ba) tháng tù đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp với 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp tài sản” của bản án số 138/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án Nh dân huyện An Dương, thành phố H. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung từ 06 (Sáu) năm 03 (Ba) tháng tù đến 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 18/7/2023.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự; xử phạt: Nguyễn Quang M từ 02 (Hai) năm 03 (ba) tháng tù đến 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách từ 04 năm 06 tháng đến 05 năm.

Giao bị cáo cho chính Q địa phương giám sát giáo dục bị cáo trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính Q địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Về dân sự: Bị cáo Nguyễn Quang M đã tự nguyện bồi thường cho anh Phạm Quốc Tr toàn bộ số tiền điều trị thương tích, người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Tr không còn yêu cầu nào khác đối với các bị cáo nên không đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết.

Về nghĩa vụ chịu án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Về Q kháng cáo bản án: Bị cáo, người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan được Q kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo không có quan điểm tranh luận với đại diện Viện Kiểm sát, phần lời nói sau cùng bị cáo Nh xin giảm nhẹ hình phạt, bị cáo M xin được cải tạo ngoài xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

- Về tố tụng:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an quận B, Điều tra viên, Viện Kiểm sát Nh dân quận B, Kiểm sát viên: Trong quá trình điều tra, truy tố của cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng về thẩm Q, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vì vậy, trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan là anh Phạm Quốc Tr và những người làm chứng vắng mặt đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Xét những người trên đã có lời khai trong hồ sơ vụ án nên việc vắng mặt tại phiên tòa không ảnh hưởng đến việc xét xử vụ án, căn cứ Điều 292 và 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Tòa án Nh dân quận B, thành phố H tiến hành xét xử vắng mặt những người trên.

- Về tội danh:

[3] Tại phiên tòa, các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” như nội dung đã nêu trên. Lời khai của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại Cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, Kết luận giám định thương tật và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở xác định: Do có mâu thuẫn từ trước với anh Nguyễn Đức Q nên khoảng 18h30 ngày 16/4/2023 bị cáo Nguyễn Quang M đã chuẩn bị hung khí gồm kiếm và gậy bóng chày rồi rủ bị cáo Đinh M Châu Nh cùng đến gặp anh Q để giải quyết mâu thuẫn. Tại khu vực trước cửa hàng Circle-K, khu đô thị Vinhomes Imperia, Thượng Lý, B, H, bị cáo Nh dùng tay đấm vào miệng, còn bị cáo M dùng kiếm chém 01 nhát vào vùng thái dương trái của anh Phạm Quốc Tr là bạn đi cùng anh Nguyễn Đức Q, gây thương tích tổn hại cho anh Tr 02% sức khỏe. Hành vi của bị cáo M và bị cáo Nh đã dùng hung khí đánh anh Tr tại khu vực bán hàng, tập trung nhiều người đã gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội. Hành vi của bị cáo Nguyễn Quang M và Đinh M Châu Nh đã phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự.

[4] Tính chất vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến an toàn công cộng, trật tự xã hội tại địa phương nên phải xem xét, xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật.

- Về vai trò, Nh thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt:

[5] Về vai trò: Vụ án có đồng phạm giản đơn nên cần phân hóa vai trò của các bị cáo, cụ thể như sau: Bị cáo Nguyễn Quang M là người chuẩn bị hung khí, rủ bị cáo Đinh M Châu Nh đi cùng đến gặp anh Q để giải quyết mâu thuẫn. Khi gặp nhóm của anh Q bị cáo đã có hành vi rút kiếm ra khỏi bao nhìn về phía anh Q đang đứng rồi nói “thằng nào”, đồng thời cầm kiếm lao về phía anh Q định đánh, thì anh Tr lao vào dùng tay đẩy M ra xa để can ngăn. M cầm kiếm bằng tay phải chém 01 nhát trúng vào vùng thái dương trái của anh Tr làm anh Tr chảy máu. Bị cáo Đinh M Châu Nh tiếp nhận ý chí của bị cáo M, đưa kiếm cho bị cáo M và dùng tay trái đấm 01 phát trúng vùng miệng của anh Tr. Do đó, xác định bị cáo M có vai trò cao hơn bị cáo Nh.

[6] Về Nh thân:

Bị cáo Nguyễn Quang M Nh thân chưa có tiền án, tiền sự.

Bị cáo Đinh M Châu Nh đã bị Tòa án Nh dân huyện An Dương, thành phố H xét xử ngày 21/12/2023 (hành vi phạm tội ngày 27/4/2022) và xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản”, lần phạm tội này của bị cáo là ngày 16/4/2023, bị cáo phạm tội lần này khi Tòa án Nh dân huyện An Dương chưa xét xử nên không tính là tái phạm nhưng cần đánh giá bị cáo có Nh thân không tốt và cần tổng hợp hình phạt với bản án của Tòa án Nh dân huyện An Dương, thành phố H theo Điều 56 Bộ luật Hình sự, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

[7] tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Ngày 15/3/2023, Tòa án Nh dân quận Dương Kinh, thành phố H xét xử bị cáo Đinh M Châu Nh 04 tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”, chưa được xóa án tích nên lần phạm tội này của bị cáo thuộc Tr hợp “tái phạm” theo quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[8] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt: Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Sau khi phạm tội bị cáo Nguyễn Quang M đã tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả bồi thường thương tích xong đối với anh Phạm Quốc Tr nên bị cáo M được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[8.1] Xét bị cáo Nguyễn Quang M có vai trò cao hơn bị cáo Đinh M Châu Nh nhưng bị cáo M có nhiều tình tiết giảm nhẹ hơn bị cáo Nh, không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Ngoài ra bị cáo M có nơi cư trú rõ ràng, bị cáo đang được cơ quan pháp luật cho tại ngoại, hiện là sinh viên, trong thời gian tại ngoại bị cáo không phạm tội nào khác. Do đó, từ các phân tích trên, Hội đồng xét xử áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo Nguyễn Quang M được cải tạo ngoài xã hội như đề nghị của Viện kiểm sát Nh dân quận B, thành phố H cũng đủ tính răn đe, giáo dục bị cáo và đấu tranh phòng ngừa chung.

[8.2] Đối với bị cáo Đinh M Châu Nh mặc dù vai trò thấp hơn bị cáo Nguyễn Quang M nhưng Nh thân xấu, phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “tái phạm”, hiện đang bị tạm giam. Do đó, mức hình phạt đối với bị cáo M và bị cáo Nh cơ bản là ngang nhau và phải ly bị cáo Nh ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới có tác dụng răn đe, giáo dục đối với bị cáo và áp dụng Điều 56 Bộ luật Hình sự, tổng hợp hình phạt với bản án của Tòa án Nh dân huyện An Dương, thành phố H, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung.

- Về trách nhiệm dân sự:

[9] Anh Phạm Quốc Tr đã được bị cáo M bồi thường đầy đủ về thương tích, không còn yêu cầu bị cáo bồi thường thêm về khoản nào khác nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[10] Về án phí và Q kháng cáo đối với bản án: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và được Q kháng cáo bản án theo quy định pháp luật. Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan được Q kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 38; Điều 56 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đinh M Châu Nh.

Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 318; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58; Điều 65 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Quang M.

Tuyên bố: Các bị cáo Đinh M Châu Nh; Nguyễn Quang M phạm tội “Gây rối trật tự công cộng” Xử phạt:

+ Bị cáo Đinh M Châu Nh 02 (Hai) năm 06 (sáu) tháng tù về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Tổng hợp với 04 (bốn) năm tù về tội “Cướp tài sản” của Bản án số 138/2023/HS-ST ngày 21/12/2023 của Tòa án Nh dân huyện An Dương, thành phố H. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 06 (Sáu) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 18/7/2023.

+ Bị cáo Nguyễn Quang M: 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội “Gây rối trật tự công cộng”. Thời gian thử thách là 05 năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Quang M cho Ủy ban Nh dân phường Trại Chuối, quận B, thành phố H giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính Q địa phương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định tại Điều 87 Luật Thi hành án hình sự từ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Trong Tr hợp bị cáo Nguyễn Quang M thay đổi nơi cư trú thì phải thực hiện theo Điều 92 Luật Thi hành án hình sự như sau:

Người được hưởng án treo có thể vắng mặt tại nơi cư trú nếu có lý do chính đáng và phải xin phép theo quy định tại khoản 2 Điều này, phải thực hiện khai báo tạm vắng theo quy định của pháp luật về cư trú. Thời gian vắng mặt tại nơi cư trú mỗi lần không quá 60 ngày và tổng số thời gian vắng mặt tại nơi cư trú không được vượt quá một phần ba thời gian thử thách, trừ Tr hợp bị bệnh phải điều trị tại cơ sở y tế theo chỉ định của bác sỹ và phải có xác nhận điều trị của cơ sở y tế đó.

Người được hưởng án treo khi vắng mặt tại nơi cư trú phải có đơn xin phép và được sự đồng ý của Uỷ ban Nh dân cấp xã; Tr hợp không đồng ý thì Uỷ ban Nh dân cấp xã phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do. Người được hưởng án treo khi đến nơi cư trú mới phải trình báo với Công an cấp xã nơi mình đến tạm trú, lưu trú; hết thời hạn tạm trú, lưu trú phải có xác nhận của Ủy ban Nh dân cấp xã hoặc Công an cấp xã nơi tạm trú, lưu trú. Tr hợp người được hưởng án treo vi phạm pháp luật, Ủy ban Nh dân cấp xã nơi người đó đến tạm trú, lưu trú phải thông báo cho Ủy ban Nh dân cấp xã được giao giám sát, giáo dục kèm theo tài liệu có liên quan.

Việc giải quyết Tr hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú hoặc nơi làm việc thực hiện theo quy định tại Điều 68 của Luật này.

Người được hưởng án treo không được xuất cảnh trong thời gian thử thách.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 45, điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật Tố tụng hình sự: Hủy bỏ biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” đối với Nguyễn Quang M.

2. Về án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2015/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án, buộc các bị cáo, mỗi người phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về Q kháng cáo: Các bị cáo có Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có Q lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án được Q kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2024/HS-ST về tội gây rối trật tự công cộng

Số hiệu:52/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;