Bản án 52/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 26/05/2021 VỀ TỘI CỐ Ý GÂY THƯƠNG TÍCH

Ngày 26 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 33/2021/HSST ngày 09 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2021/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 05 năm 2021 đối với bị cáo:

Nguyễn Th T (T khùng), sinh năm 1984, tại tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: Không; Nơi cư trú: khu phố R, phường B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai; Giới tính: Nam; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 02/12; con ông Nguyễn V D, sinh năm 1951 (đã chết) và bà Lý T N, sinh năm 1959, bị cáo chưa có vợ con. Tiền sự: Không; Tiền án:

+ Ngày 25/06/2003, bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tại bản án số 261/HSST.

+ Ngày 28/8/2003, bị Toà án nhân dân tỉnh Đồng Nai, xử phạt 07 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, tại bản án số 374/HSST, Tổng hợp hình phạt chung cả 02 bản án là 10 năm tù, chấp hành xong ngày 29/9/2010.

+ Ngày 19/11/2015, bị Tòa án nhân dân thị xã Long Khánh (nay là thành phố Long Khánh), tỉnh Đồng Nai xử phạt 03 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Ngày 20/3/2018 chấp hành xong án phạt tù.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam từ ngày 17/12/2020 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Long Khánh.

- Bị hại: Anh Ph M T1, sinh năm 1987 Nơi cư trú: ấp T, xã B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

- Người làm chứng:

1. Anh Phạm Th Đ, sinh năm 1994 Nơi cư trú: ấp T, xã B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

2. Anh Phạm T, sinh năm 1978 Nơi cư trú: khu phố R, phường B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

3. Anh Ng X Th, sinh năm 1986 Nơi đăng ký thường trú: khu phố 2, phường X, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Chỗ ở hiện nay: ấp B T, xã B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

4. Chị Nguyễn Th N, sinh năm 1995 Nơi đăng ký thường trú: thị trấn T, huyện G, tỉnh Tiền Giang Chổ ở hiện nay: khu phố R, phường B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

(Bị cáo, bị hại và người làm chứng anh T có mặt; Người làm chứng anh Đ, anh Th và chị N vắng mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Th T có mối quan hệ quen biết với Phạm M T, sinh năm 1987, thường trú: ấp T, xã B, thành phố Long Khánh, tạm trú: khu phố R , phường B V, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai. Đầu năm 2019, T có cho T1 vay số tiền 10.000.000 đồng để làm ăn, sau đó T và T1 phát sinh mâu thuẫn về việc tính toán trả số tiền gốc và lãi không thống nhất. Đến khoảng 19 giờ 50 phút ngày 22/8/2020, T và T1 nói chuyện qua điện thoại và hẹn gặp nhau tại phòng trọ của T1 để lấy tiền. Sau đó, khoảng 10 phút sau, T1 thấy từ đầu đường hẻm vào dãy phòng trọ có 02 nam thanh niên chở nhau bằng xe máy đến, T ngồi sau xuống xe trên tay cầm 01 con dao tự chế dài khoảng 1,5 mét. Nghĩ là T cầm dao đến chém mình nên T1 chạy quay vào phòng trọ của mình lấy ra 01 máy cưa rồi đứng ở sân phòng trọ, khởi động máy cưa để đánh lại T. Lúc này, có anh trai của T1 là anh Phạm T, sinh năm 1978, ngụ khu phố R, phường B, thành phố Long Khánh và em trai của Tiến là Phạm Th Đ, sinh năm 1994, ngụ ấp Th, xã B, thành phố Long Khánh đang có mặt ở đây. Anh Tu can ngăn T1 đánh nhau, còn Đ thì nhặt gạch ném về phía của T đang đi vào hẻm nhà trọ. T và T1 đi đến gần nhau rồi cầm dao tự chế và máy cưa đánh nhau qua lại. T1 bị T chém vào vùng tai, cổ trái và ngực phải gây thương tích, T thì bị T1 quơ máy cưa vào người bị thương xây sát da. Sau đó, T mang theo hung khí bỏ chạy, T1 được người thân đưa đến Bệnh viện đa khoa khu vực Long Khánh cấp cứu. Đến khoảng 2 giờ 30 phút ngày 23/8/2020, T đến Công an thành phố Long Khánh đầu thú khai báo về việc đã dùng cây xẻng nhặt được trên đường gây thương tích cho T1.

Theo giấy chứng nhận thương tích số 1743/CN-BV ngày 16/9/2020, của Bệnh viện đa khoa khu vực Long Khánh thể hiện, anh Phạm M T1 vào viện lúc 20 giờ 10 phút ngày 22/8/2020, tình trạng thương tích lúc vào viện như sau:

- 01 vết thương đứt rời sụn từ 1/3 ngoài vành tai chỉ còn dính da mặt sau dái tai, bờ sắc, lật da mặt trước giữa vết thương (vành tai) đường kính rộng 0,5cm, dài 0,7cm kéo dài xuống đoạn 1/3 dưới cổ dài khoảng 20cm, rộng 04cm, sâu 02cm. Vết thương đứt bao cơ các cơ ức đòn chủm, cơ nhị thân, lộ màng xương sọ sau vùng chẩm, rách màng xương sọ, kiểm tra không thấy nứt mẻ xương sọ, vết thương làm lóc 01 diện tích lớn vùng cổ, kích thước: 14cm x 04cm, vết thương lóc da, bẩn, có ít đất nằm sâu phía dưới, đứt ngang 2/3 cơ ức đòn chũm thì dừng lại, không tổn thương động mạch cảnh, đứt tĩnh mạch cổ nổi, không đứt tĩnh mạch cảnh ngoài, đứt nhánh động mạch tuyến mang tai.

- 03 vết thương nhỏ kích thước: 02cm x 0,3cm x 0,3cm, 02cm x 0,3cm x 0,3cm, 05cm x 0,3cm x 0,3cm theo chiều dọc từ vết thương tai xuống ngực (bút lục số 80).

Tại bản kết luận giám định pháp y về thương tích số 0854/TgT/2020 ngày 29/9/2020, Trung tâm pháp y Đồng Nai kết luận:

Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên tại thời điểm giám định của anh Phạm M T1 là: 17% (Mười bảy phần trăm).

Vật gây thương tích: vật sắc.

Quá trình điều tra, T khai nhận sử dụng xẻng nhặt được bên đường để đánh nhau với anh T1, làm anh T1 bị thương chứ không phải dùng dao tự chế chém anh Tiến.

Về vật chứng thu giữ: Không.

Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã bồi thường số tiền 5.000.000 đồng cho anh Phạm M T1. Anh T1 đã nhận đủ tiền và làm đơn bãi nại về dân sự và xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho T.

Tại Cáo trạng số: 36/CT-VKS-LK ngày 31 tháng 3 năm 2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố đã truy tố bị cáo Nguyễn Th T về tội “Cố ý gây thương tích” theo điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa hôm nay:

* Bị cáo đã thừa nhận hành vi gây thương tích cho anh T1, tuy nhiên bị cáo khẳng định không dùng dao tự chế mà bị cáo dùng cây xẻng nhặt được trên đường gây thương tích cho anh T1.

* Bị hại trình bày: Thống nhất nội dung như bản cáo trạng mô tả diễn biến sự việc, do phát sinh mâu thuẫn từ việc vay mượn tiền và có sự thách thức qua điện thoại giữa hai bên nên bị cáo T đã đến khu trọ nơi anh T1 ở của khu phố Ruộng Lớn, phường Bảo Vinh, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai dùng dao tự chế chém anh T1 gây thương tích. Anh T1 đã nhận số tiền bồi thường 5.000.000 đồng từ bị cáo, không yêu cầu gì thêm và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

* Người làm chứng - anh Phạm Tu trình bày: Thống nhất nội dung như bản cáo trạng mô tả diễn biến sự việc, vào khoảng 20 giờ ngày 22/8/2020 khi anh đang ở nhà thì nhận được điện thoại của T1 nói sẽ có 02 người xuống nhà trọ T1 ở đòi tiền và dọa chém nên anh đi xuống và chứng kiến sự việc bị cáo Tùng đã dùng dao tự chế dài khoảng 01 mét, lưỡi nhọn sáng bằng kim loại gây thương tích cho anh T1, sau đó gia đình đưa anh T1 đi cấp cứu tại Bệnh viện đa khoa khu vực Long Khánh.

* Người làm chứng anh Đ, anh Th và chị Nh vắng mặt nên không có lời trình bày, Hội đồng xét xử công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra.

* Do bị cáo khẳng định dùng xẻng chém anh T1, không phải dùng dao tự chế nên Hội đồng xét xử quyết định cho việc xem file ghi hình tại đĩa VCD kèm theo hồ sơ đoạn video trích xuất từ camera an ninh do anh Lê P Th là chủ nhà trọ cung cấp cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Khánh ngày 23/8/2020, ghi hình lại vụ Cố ý gây thương tích vào ngày 22/8/2020 tại khu phố Ruộng Lớn, phường Bảo Vinh, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

Sau khi được xem đoạn video trên, bị cáo T, bị hại T và người làm chứng anh Tu đều thừa nhận đoạn video đã ghi hình lại diễn biến toàn bộ sự việc Cố ý gây thương tích giữa các bên vào ngày 22/8/2020 tại khu phố Ruộng Lớn, phường Bảo Vinh, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

* Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên toà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã nêu và đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm a khoản 1, điểm đ khoản 2 Điều 134; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo: Nguyễn Th T 03 (Ba) năm đến 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù giam.

- Trách nhiệm dân sự đã giải quyết xong nên không đặt ra xem xét.

* Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, bị cáo nói sau cùng: Bị cáo cam đoan sẽ trở thành người hoàn thiện hơn sau khi chấp hành hình phạt lần này.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên toà, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về sự vắng mặt của người liên quan đến vụ án: Tại phiên tòa người làm chứng vắng mặt nhưng cơ quan điều tra đã xác minh, làm việc và đã có đơn xin vắng mặt nên việc vắng mặt của họ không ảnh hưởng đến việc xét xử. Do đó, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định tại các Điều 293 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về tội danh và điều luật áp dụng: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án thể hiện:

Do mâu thuẫn trong việc vay, mượn tiền nên vào khoảng 20 giờ 00 phút ngày 22/8/2020, tại khu vực nhà trọ anh Phạm Minh T1, thuộc khu phố R, phường B, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, Nguyễn Th T đã dùng hung khí nguy hiểm chém gây thương tích cho anh Phạm M T1, với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 17%.

Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay, bị cáo quanh co không thừa nhận dùng hung khí nguy hiểm là con dao tự chế mà dùng cây xẻng nhặt được trên đường gây thương tích cho anh T1 nhưng qua lời khai của bị hại, những người làm chứng, kết luận giám định pháp y về thương tích cũng như đoạn video ghi hình được Hội đồng xét xử cho xem tại phiên tòa thể hiện bị cáo khi bước vào dãy nhà trọ nơi anh T1 ở trên tay đã chuẩn bị hung khí từ trước đó, cầm theo hung khí nguy hiểm có hình dạng là con dao tự chế trong tư thế sẵn sàng chém người, việc bị cáo khai dùng cây xẻng nhặt được trên đường trước khi đến nhà trọ anh T1 gây thương tích cho anh T1 là không có cơ sở chấp nhận.

Nguyễn Th T đã dùng dao tự chế là hung khí nguy hiểm gây thương tích cho anh Phạm M T1 nên hành vi của T đã phạm vào điểm a khoản 1 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, do tỷ lệ thương tích của Tiến là 17% và bị cáo T đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý nên thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm; hành vi của Tùng đã phạm vào điểm d, đ khoản 2 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) Từ đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Th T phạm vào tội “Cố ý gây thương tích”. Do vậy, cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo như trên là có cơ sở, đúng người, đúng tội danh và điều luật áp dụng.

[4] Xét tính chất, mức độ của hành vi của bị cáo:

Bị cáo ý thức được hành vi gây thương tích người khác là vi phạm pháp luật, nhưng chỉ vì mâu thuẫn trong quan hệ xã hội mà bị cáo đã chuẩn bị hung khí và gây thương tích cho anh Tiến. Đáng lẽ, khi xảy ra mâu thuẫn bị cáo nên hành xử theo một cách khác nhưng bị cáo đã chọn việc dùng bạo lực để giải quyết mâu thuẫn, chứng tỏ bị cáo xem thường tính mạng, sức khỏe của bị hại, hành vi của bị cáo còn gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Quá trình điều tra bị cáo đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại; bị cáo đầu thú, bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự; về nhân thân bị cáo có nhân thân xấu.

Căn cứ vào hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét cần phải xử lý nghiêm bị cáo buộc phải cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới đủ tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo đồng thời có tác dụng chung trong việc đấu tranh và phòng ngừa tội phạm.

Đối với người chở T bằng xe máy đến phòng trọ của anh T1 để T gây thương tích cho T1, T khai là người đàn ông chạy xe ôm tại bến xe Long Khánh được T thuê chở đến nhà trọ của T1, hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch cụ thể nên khi phát hiện điều tra xử lý sau.

Đối với các thương tích của T là những thương tích ngoài da, xây sát da, T đã tự nguyện từ chối giám định thương tích nên không xem xét xử lý đối với hành vi của Tiến.

[6] Về xử lý vật chứng:

Lưu giữ tại hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD có chứa đoạn video ghi hình lại vụ Cố ý gây thương tích vào ngày 22/8/2020 tại khu phố Ruộng Lớn, phường Bảo Vinh, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không đặt ra xem xét.

[8] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[9] Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Long Khánh phù hợp với một phần nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Th T (T khùng) phạm tội “Cố ý gây thương tích ”.

Áp dụng điểm a khoản 1, điểm d, đ khoản 2 Điều 134; điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 53, Điều 38 của Bộ luật hình sự;

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Th T 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2020.

2. Về xử lý vật chứng: Tiếp tục lưu giữ trong hồ sơ vụ án 01 đĩa VCD có chứa đoạn video trích xuất từ camera an ninh do anh Lê Phước Thịnh là chủ nhà trọ cung cấp cho Cơ quan điều tra Công an thành phố Long Khánh ngày 23/8/2020, ghi hình lại vụ Cố ý gây thương tích vào ngày 22/8/2020 tại khu phố Ruộng Lớn, phường Bảo Vinh, thành phố Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.

3. Về án phí: Áp dụng khoản 2, Điều 136 của Bộ Luật tố tụng hình sự; Áp dụng Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo Nguyễn Th T phải nộp 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo, bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2021/HS-ST ngày 26/05/2021 về tội cố ý gây thương tích

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Long Khánh - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;