Bản án 52/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Trong ngày 22 tháng 4 năm 2021 tại Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 44/2021/TLST–HS ngày 26 tháng 3 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2021/QĐXXST- HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn T, tên gọi khác: Không; sinh ngày 21 tháng 4 năm 1983 tại Từ Sơn, Bắc Ninh; nơi cư trú: Tổ B, khu HB, phường CT, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn Ovà bà Trần Thị N; vợ, con chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 06/9/2013 Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội: “Cướp tài sản”, Bị bắt, tạm giam ngày 17/12/2020, hiện đang tạm giam tại nhà tạm giữ công an thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

- Chị Nguyễn Thị VA, sinh năm 1985; nơi cư trú: Tổ S, khu MB, phường CT, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; vắng mặt.

- Người làm chứng: Anh Nguyễn Văn E, anh Phạm Quý V- đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Vào hồi 11 giờ 35 phút ngày 17/12/2020, tại tổ 8, khu Bình Sơn, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,285 gam (Không phẩy hai tám lăm gam), chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích sử dụng thì bị Công an thành phố Cẩm Phả bắt quả tang.

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: T sử dụng ma túy “đá” từ năm 2019 đến nay, khoảng 11 giờ ngày 17/12/2020 bị cáo mượn xe mô tô biển số 14U1- 267.37 của chị VA nói đi có việc và xuống khu vực bến xe Cẩm Sơn mua 200.000đ ma túy của 1 người không quen biết khi đang đi tìm chỗ sử dụng thì bị bắt giữ.

Kết luận giám định số 74/KLGĐ ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, xác định: Mẫu vật thu giữ của Nguyễn Văn T gửi giám định là ma túy; loại: Methamphetamine; khối lượng 0,285 gam (Không phẩy hai tám lăm gam).

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Nguyễn Thị VA khai tại cơ quan điều tra như sau: Ngày 17/12/2020 anh Nguyễn Văn T là anh trai ruột của chị có mượn xe mô tô biển số 14U1-267.37 đi có việc, sau đó anh T bị bắt và thu giữ xe, khi cho anh T mượn xe chị không biết việc T sử dụng vào việc đi mua ma túy. Chị đã được cơ quan điều tra trả lại xe và không có ý kiến gì khác.

Tại bản Cáo trạng số: 50/CT-VKSCP-HS ngày 25/3/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả truy tố Nguyễn Văn T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị hội đồng xét xử: Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù. Áp dụng: Điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự: Tịch thu và tiêu hủy ma túy; trả lại cho bị cáo 01 điện thoại Nokia, màu đen kèm theo 01 sim.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cẩm Phả, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục được qui định trong Bộ luật Tố tụng hình sự; quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên toà bị cáo khai nhận hành vi cất giữ 0,285 gam Methamphetamine với mục đích sử dụng đúng như bản cáo trạng đã truy tố. Lời khai của bị cáo tại phiên toàn hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra đồng thời phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp với lời khai của những người làm chứng, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ và kết luận giám định số 74/KLGĐ ngày 23/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh, cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ đã được thẩm tra tại phiên tòa có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 11 giờ 35 phút ngày 17/12/2020, tại tổ 8, khu Bình Sơn, phường Cẩm Sơn, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh, Nguyễn Văn T có hành vi tàng trữ trái phép 0,285 gam (Không phẩy hai tám lăm gam), chất ma túy, loại Methamphetamine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự nên có cơ sở chấp nhận lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả tại phiên tòa.

[3] Bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy mà còn tiếp tay cho các đối tượng mua bán ma tuý khác gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an tại địa phương. Mặc dù hiểu rõ tác hại của ma túy, do ý thức chấp hành pháp luật kém bị cáo đã cất giữ ma túy trong người với mục đích sử dụng, do đó cÇn cã mét h×nh ph¹t nghiêm khắc, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ: Tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo nên xem xét áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5] Xét nhân thân: Bị cáo có nhân thân xấu, năm 2013 Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xử phạt 03 năm tù, nhưng cho hưởng án treo về tội: “Cướp tài sản”, đã thi hành xong bản án. Tiền án, tiền sự: Không.

[6] Hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự: Ngoài hình phạt chính bị cáo còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung song xét bị cáo là đối tượng nghiện, không có nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung.

[7] Về vật chứng: Cơ quan điều tra thu giữ trong vụ án: 01 túi ma túy; 01 xe máy Honda wave & màu trắng đeo biển số 14U1-267.37; Xét 0,22 gam Methamphetamine hoàn lại sau giám định được niêm phong trong phong bì số 74/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh là vật nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu và tiêu hủy; 01 điện thoại Nokia kèm theo 01 SIM là tài sản của bị cáo không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo; chiếc xe mô tô Honda wave & quá trình điều tra xác định là tài sản của bị cáo mượn của chị Nguyễn Thị VA không liên quan đến tội phạm cơ quan điều tra đã trả lại cho chị Vân Anh, đến nay chị Vân Anh không còn ý kiến nào khác nên không đề cập.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

[9] Về quyền kháng cáo: Bị cáo và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án được quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Văn T phạm tội: "Tàng trữ trái phép chất ma tuý".

Xử phạt: Nguyễn Văn T 16 (mười sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt ngày 17/12/2020.

Về vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2, điểm a khoản 3 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật hình sự:

- Tịch thu, tiêu huỷ 01 phong bì còn nguyên dấu niêm phong số 74/KLGĐ của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh;

- Trả lại cho bị cáo 01 điện thoại di động Nokia màu đen kèm theo 01 sim; Tình trạng vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng số 108 ngày 20/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả.

Về án phí: Áp dụng Khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án: Bị cáo phải chịu 200.000đ phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;