Bản án 52/2021/HS-ST ngày 14/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HƯNG HÀ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 52/2021/HS-ST NGÀY 14/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 14 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 46/2021/TLST-HS ngày 20 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 49/2021/QĐXXST- HS ngày 04 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Đình Ch, sinh năm1985.

Nơi cư trú: thôn Đ, xã Đ, huyện H, tỉnh Thái Bình; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 6/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Đình Ch và bà Nguyễn Thị Ng (đã chết); có vợ Bùi Thị V (Đã ly hôn) và 01 con, sinh năm 2010; tiền án: Không; tiền sự: Ngày 22/01/2019 bị Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình ra Quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, thời hạn 15 tháng, đã chấp hành xong ngày 31-5-2020; bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 15/01/2021 đến ngày 18/01/2021 chuyển tạm giam, hiện đang bị tạm giam tại Nhà Tạm giữ Công an huyện H “có mặt”.

Những người làm chứng:

1. Ông Khúc Đình V, sinh năm 1960 (vắng mặt).

Địa chỉ: tổ dân phố B, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Anh Hoàng Văn D, sinh năm 1981 (vắng mặt).

Địa chỉ: tổ dân phố Đ, thị trấn H, huyện H, tỉnh Thái Bình.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 13 giờ 20 phút ngày 15/01/2021, tại khu vực nghĩa trang thuộc tổ dân phố Thị An - Tiền Phong, thị trấn H, huyện H, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H phát hiện, bắt quả tang Lê Đình Ch có hành vi cất giấu tại lòng bàn tay trái 01 gói ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1295 gam, mục đích để sử dụng. Ngoài ra, quản lý tại túi quần bên phải phía trước của Chiến đang mặc 02 ống Nôvôcain và 01 xi lanh chưa qua sử dụng. Công an huyện H đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và niêm phong gói ma túy, đồ vật trên trước sự chứng kiến của những người làm chứng. Khám xét khẩn cấp chỗ ở của Lê Đình Ch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H không quản lý, thu giữ đồ vật, tài sản gì.

Bản kết luận giám định số 18/KLGĐMT-PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, kết luận: Mẫu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng 0,1295 gam (Không phẩy một nghìn hai trăn chín mươi lăm gam).

Bản cáo trạng số 56/CT- VKSHH ngày 19-4-2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H, tỉnh Thái Bình truy tố bị cáo Ch về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên tòa bị cáo Ch thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của bị cáo như nội dung bản cáo trạng đã nêu.

Tại phiên tòa không phát sinh tình tiết mới, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện H khẳng định nội dung bản cáo trạng truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX): Tuyên bố bị cáo Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 BLHS; xử phạt bị cáo Ch từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15-01-2021; về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Ch; Áp dụng Điều 47 BLHS, Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì còn nguyên niêm phong số 18/KLGĐMT-PC09 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình, 01 xilanh và 02 ống Novocain đều chưa qua sử dụng. Bị cáo Ch phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Ch không tranh luận gì và đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, HĐXX nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên Công an huyện H, Viện kiểm sát nhân dân huyện H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và phù hợp với các tài liệu chứng cứ sau: Biên bản bắt người phạm tội quả tang (Bút lục từ số 35 đến số 38); biên bản quản lý và niêm phong đồ vật tài liệu (Bút lục số 39); bản kết luận giám định số 18/KLGĐMT-PC09 ngày 18/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình (Bút lục số 51); lời khai của những người làm chứng: ông Khúc Đình V và anh Hoàng Văn D (Bút lục từ số 84 đến số 91). Như vậy có đủ cơ sở kết luận: Hồi 13 giờ 20 phút ngày 15/01/2021, tại khu vực nghĩa trang thuộc địa phận tổ dân phố Thị An - Tiền Phong, thị trấn H, huyện H Lê Đình Ch đã có hành vi tàng trữ trái phép 0,1295 gam ma túy, loại Heroine, mục đích để sử dụng. Hành vi của bị cáo thực hiện đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Điều 249: Tội tàng trữ trái phép chất ma túy 1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) … c) Heroine, Cocaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

d)… [3] Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý mà bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quy định độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy. Bị cáo là người trưởng thành, có đầy đủ năng lực điều khiển hành vi của mình, nhận thức rõ ma túy là chất gây nghiện, gây tác hại nghiêm trọng đến sức khỏe con người, làm suy kiệt kinh tế gia đình, đồng thời ma túy cũng là nguyên nhân của rất nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự xã hội. Nhà nước đã nghiêm cấm mọi hành vi tàng trữ, vận chuyển, mua bán…trái phép chất ma túy, nhưng do mắc nghiện ma túy nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo không bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào, bị cáo có nhân thân xấu, Vì vậy cần phải áp dụng hình phạt tù theo quy định của khung hình phạt, cách ly bị cáo khỏi cuộc sống xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính chất răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội. Tuy nhiên trong quá trình điều tra và t¹i phiªn toµ bị cáo thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình nên Hội đồng xét xử cũng xem xét giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo khi lượng hình theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS.

[4] Bị cáo mắc nghiện ma túy, mục đích tàng trữ trái phép ma túy là để sử dụng cho bản thân, không có thu nhập, do vậy không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về nguồn gốc ma túy, bị cáo Ch khai: Số ma tuý bị thu giữ ngày 15/01/2021, Ch mua của một người đàn ông khoảng 40 tuổi ( không biết họ, tên, tuổi, địa chỉ cụ thể) ở thị trấn H, huyện H với giá 200.000 đồng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tiến hành điều tra, xác minh nhưng không xác định được con người cụ thể đã bán ma túy cho Ch nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

[6] Về xử lý vật chứng: 0,0811gam (Không phẩy không nghìn tám trăm mười một gam) ma túy, loại Hêrôine còn lại sau giám định thu của bị cáo Ch trong phong bì số 18/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình là vật cấm lưu hành và 01 xilanh, 02 ống Novocain đều chưa qua sử dụng là vật chứng của vụ án, cần tịch thu để tiêu huỷ.

[7] Bị cáo Ch phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm và bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Từ các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Đình Ch phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

2. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 50 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Ch 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ 15-01-2021.

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu để tiêu huỷ 0,0811gam (Không phẩy không nghìn tám trăm mười một gam) ma túy, loại Hêrôine còn lại sau giám định thu của bị cáo Ch trong phong bì số 18/KLGĐ của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Bình; 01 xilanh và 02 ống Novocain đều chưa qua sử dụng. (Vật chứng trên do Chi cục Thi hành án dân sự huyện H, tỉnh Thái Bình đang quản lý).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 14, bị cáo Ch phải nộp 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo Ch có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2021/HS-ST ngày 14/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:52/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hưng Hà - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;