Bản án 52/2021/HS-PT ngày 10/05/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH B G

BẢN ÁN 52/2021/HS-PT NGÀY 10/05/2021 VỀ TỘI BẮT, GIỮ NGƯỜI TRÁI PHÁP LUẬT

Trong ngày 10/5/2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh B.G xét xử phúc thẩm C khai vụ án hình sự thụ lý số 85/TLPT-HS ngày 10 tháng 3 năm 2021 đối với các bị cáo C. Q. Q và V. D. L do có kháng cáo của các bị cáo với Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2021/HS-ST ngày 01/2/2021 của Tòa án nhân dân huyện L.N.

Các bị cáo có kháng cáo:

1. Họ và tên: C. Q. Q - Tên gọi khác: Không - Giới tính: Nam; Sinh năm: 1990, tại huyện L.N, tỉnh B.G; Nơi ĐKHKTT và trú tại: thôn Giáp Trung, xã T.H, huyện L .N, tỉnh B. G; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; con ông: C Q D, sinh năm 1966; và con bà: N T H, sinh năm 1967; vợ: V T D, sinh năm 1996; Con: có 02 con, lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2019; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2020 đến ngày 30/6/2020 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: V. D. L - Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1996; Nơi ĐKHKTT và trú tại: thôn Tân Thành, xã T.M, huyện L.N, tỉnh B.G; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: làm ruộng; Trình độ học vấn: 09/12; con ông: VDB, sinh năm 1971; và con bà: B T G, sinh năm 1971; Vợ, con: Chưa có. Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị bắt theo Lệnh bắt người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/5/2020 đến ngày 18/7/2020 được thay thế bằng biện pháp Cấm đi khỏi nơi cư trú. Có mặt tại phiên tòa.

Trong vụ án còn có 4 bị cáo khác, 1 bị hại không có kháng cáo và liên quan đến kháng cáo Tòa phúc thẩm không triệu tập.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Buổi sáng ngày 08/5/2020, L.V.A, sinh năm 1990, trú tại thôn Thượng Vũ, xã Quý Sơn, huyện L.N, tỉnh B.G ngủ dậy và phát hiện bị mất hai giỏ lan Phi Điệp treo ở vườn lan trước cửa nhà. An xem camera an ninh của gia đình thì thấy có 02 người thanh niên vào lấy trộm 02 giỏ lan trên, nhưng không nhìn rõ mặt. Do buổi chiều hôm trước có anh V. V.T, sinh năm 1993, trú tại thôn Cấm Vải, xã KL, huyện L.N, tỉnh B.G và anh L.N.C, sinh năm 1991, trú tại thôn Sậy, xã TH, huyện L.N, tỉnh B.G đến nhà A chơi và xem lan nên A nghi ngờ anh T và anh C đã trộm cắp 02 giỏ lan trên. Sau đó A đã gọi điện thoại gọi cho anh C hỏi có lấy lan của An không nhưng anh C bảo không lấy. Nên A gọi G.V.C, sinh năm 1993, trú tại thôn Biềng, xã ND, huyện L.N, tỉnh B.G nói cho C được biết và rủ c đi tìm anh T để hỏi về việc trộm cắp 02 giỏ lan trên, C đồng ý, do lúc này C đang ngồi uống nước ở thị trấn Chũ, huyện L.N cùng với V. D. L, sinh năm 1996, trú tại thôn Tân Thành, xã T.M, huyện L.N, tỉnh B.G và đối tượng tên P (chưa xác định được cụ thể nhân thân, lai lịch) nên C bảo A ra thị trấn C gặp nhau. Sau đó C gọi điện thoại cho C. Q. Q, sinh năm 1990, trú tại thôn Giáp Trung, xã T.H, huyện L.N, tỉnh B.G và Đ. V.Đ, sinh ngày 11/11/2002, trú tại thôn Muối, xã GS, huyện L.N, tỉnh B.G rủ Q và Đ. ra thị trấn C ăn sáng và được Q, Đ. đồng ý. Còn L. V.A sau đó điều khiển xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET, màu sơn đen, biển số 98A-174.34 đến gặp và cùng ăn sáng với nhóm của C. Trong khi ăn sáng, A có nói cho cả nhóm biết về việc mình bị mất hai giỏ lan Phi Điệp, nghi là anh T lấy trộm, A rủ cả nhóm đi tìm lại lan cho A và được mọi người đồng ý. Sau khi ăn sáng xong, A lái xe ô tô chở C và p đi đến một số địa điểm buôn bán lan để tìm hai giỏ lan bị mất, còn Q, L và Đ. ra quán trà đá tại thị trấn Chũ ngồi chờ. Sau khi đi tìm nhưng không thấy hai giỏ lan của mình, An gọi điện thoại cho V.D.T, sinh năm 1987, trú tại khu Quang Trung, thị trấn Chũ, huyện L.N, tỉnh B.G làm nghề lái xe dịch vụ bảo đến chỗ Q., Luận và Đ. đón để đi vào trong xã Kiên Lao. Đồng thời An cũng lái xe quay lại chỗ mọi người đang chờ ở quán nước tại thị trấn Chũ, huyện L.N. Tại đây An có nói với T. là anh cứ đi theo xe của em.

Sau đó T. lái xe ô tô nhãn hiệu KIA CERATO, biển số 98A-193.35 chở theo Q, L, Đ., còn An lái xe ô tô của A chở theo C và P. Cả nhóm cùng đi đến nhà anh T tại thôn Cấm Vải, xã KL, huyện L.N, tỉnh B.G để tìm anh T nhưng không thấy anh T ở nhà nên An có nói đi ra ngoài Chũ tìm. Trên đường quay ra thị trấn Chũ, khi đến quán internet của gia đình anh LVH, sinh năm 1979, ở thôn Sậy, xã Trù Hựu, huyện L.N, tỉnh B.G, A và T. đỗ xe lại để vào tìm anh Thực. Sau đó An xuống xe đi vào trong quán trước còn C, Q., L., Phương, Đ. và T. đi vào sau. An đi vào trong quán internet nhìn thấy anh T đang ở trong quán nên An gọi anh Thực ra ngoài. Anh Thực đi ra ngoài cửa quán thấy có Đ. người nên định bỏ chạy thì bị An dùng tay giữ lại. Đồng thời C, Phương và L. lao vào dùng chân tay đánh, đấm liên tục vào người của anh T. Sau đó An tiếp tục tra hỏi anh T về việc có lấy hai giỏ lan Phi Điệp của nhà An không nhưng anh T không thừa nhận nên tiếp tục bị C, P và L. dùng tay, chân đánh. Lúc này An nói đưa anh T về nhà An để xem camera, sau đó An dùng tay giữ tay phải của anh T, còn Q. dùng tay giữ tay trái của anh T đưa ra xe ô tô, không cho anh T bỏ chạy. Khi đi ra đến cổng quán internet, anh T tiếp tục bị C, Phương, L. đánh và khi ra khỏi cổng quán được khoảng hai đến ba bước chân, quan sát thấy anh T dừng lại không muốn đi tiếp nữa thì Đ. dùng tay đẩy vào lưng anh T để bắt anh T tiếp tục đi theo cả nhóm. Khi sang đến nơi đỗ xe ô tô ở đối diện cổng quán internet, anh T tiếp tục bị hỏi về việc lấy trộm lan nhưng anh T không thừa nhận nên tiếp tục bị nhóm của An đánh. Lúc này T. đứng xem và dùng điện thoại di động chụp ảnh sự việc. Sau đó Phương đẩy anh T lên ngồi lên ghế phía sau xe ô tô biển số 98A-174.34 của L.V.A, P VÀ L ngồi hai bên cạnh anh T, An là người điều khiển xe ô tô, C ngồi ở ghế phụ cạnh An. Những người còn lại gồm Q., Đ. và T. lên xe ô tô biển số 98A-193.35 do T. điều khiển đi theo xe ô tô của An để về nhà A.

Trên đường về, A gọi điện thoại cho T. bảo T. đi đón anh L.N.C do nghi ngờ anh C có liên quan đến việc trộm cắp lan của An. Xe của T. đón được anh C rồi cùng xe của An về nhà A, khi đi đến khu vực gần Tiểu đoàn 15, Sư đoàn 325 thuộc thôn TM, xã KT, huyện L.N, tỉnh B.G thì A, T. dừng xe lại và mọi người xuống xe. An hỏi anh T và anh C có lấy 02 giỏ lan của An không thì cả hai đều nói không lấy. Thấy vậy C và P ra xe ô tô của An lấy 01 (một) thanh kiếm và 01 (một) chiếc gậy, loại gậy bóng chày ra chỗ anh T đang đứng, C cầm kiếm và đưa sống cây kiếm vào lưng anh T đe dọa “mày ăn trộm lan bằng tay nào để tao chặt”. Còn P cầm gậy bóng chày vụt vào mông của anh T nhưng anh T vẫn không thừa nhận lấy trộm lan. Lúc này An bảo cả nhóm đưa anh T về nhà An nên tất cả cùng lên xe ô tô đi đến nhà của An, anh C cũng lên xe của T. đi cùng cả nhóm. Trên đường về nhà A, P và L. ngồi ghế sau cùng anh T vừa tra hỏi anh Thực về việc lấy trộm lan của A vừa dùng tay đánh anh T. Do bị nhóm của L.V.A bắt, giữ và bị đánh đau nên anh T có thừa nhận đã cùng với Lý Văn Ngọc, sinh năm 1992, trú tại thôn Cấm Vải, xã Kiên Lao, huyện L.N, tỉnh B.G lấy hai giỏ lan của An. Khi về đến nhà An, cả nhóm đưa anh T vào ngồi tại khu vực bàn ghế thuộc gian nhà để lan của An và An đưa điện thoại cho anh T bảo gọi điện thoại cho Ngọc mang trả lan cho An thì mới cho anh T về. Sau đó An gọi điện thoại cho L.H.T, sinh năm 1982, trú tại thôn PT, xã QS, huyện L.N, tỉnh B.G rủ T. đến chơi xem người đã ăn trộm lan của An. T. đi đến nhà An ngồi một lúc thì về nhà lấy xe ô tô biển số 98A-149.10 quay lại nhà An để chở mọi người đi ăn cơm. Cả nhóm của An, T. và anh T chờ đến khoảng 11 giờ cùng ngày mà chưa thấy anh Ngọc mang lan đến trả nên An bảo mọi người ra quán PL ở thị trấn Chũ, huyện L.N, tỉnh B.G ăn cơm. Tuy nhiên khi đến nơi thì L. và Đ. nói có việc bận nên không ăn cơm mà ra về. Những người còn lại vào trong quán ăn cơm, trong lúc đang ăn cơm thì có anh Ngọc và anh Nguyễn Văn Q., sinh năm 2002, trú tại thôn Mịn To, xã Trù Hựu, huyện L.N, tỉnh B.G đến. Anh T và anh N có nói chuyện với nhau, anh T nói với anh Ngọc là anh T không trộm hai giỏ lan của An, anh N phải tin anh T. Sau khi nói chuyện với anh Ngọc xong thì anh T không thừa nhận đã lấy trộm lan của An và nói nghi cho anh C và anh NVS, sinh năm 1991, trú tại thôn Sậy Cầu, xã Trù Hựu, huyện L.N, tỉnh B.G đã lấy trộm hai giỏ lan của An. Nghe anh T nói vậy nên An điện thoại gọi cho anh C và anh Sơn bảo hai người đến nhà của An nói chuyện, sau đó An bảo mọi người về nhà của An, anh N và anh Q. (sinh năm 2002) cũng đi cùng.

Khi về đến nhà An, anh T tiếp tục bị đưa vào khu vực bàn uống nước trong vườn lan của nhà An ngồi. An có nói với anh T là sáng mày nhận, bây giờ mày mang lan về cho tao thì tao bỏ qua hết nhưng anh T vẫn không thừa nhận đã lấy trộm lan. Lúc này T. bực tức vì trước đó anh Thực nhận lấy trộm lan của An nhưng bây giờ lại cãi không nhận nên T. cầm mũ cối đập một nhát về phía anh Thực nhưng anh Thực tránh được nên không trúng, anh T định bỏ chạy thì An giữ lại không cho anh T chạy. T. dùng tay đánh 02 cái vào người anh T, còn An cầm gậy rút vụt vào chân của anh T và nói là mày không trả lan thì không đi ra khỏi đây được đâu. C lúc này dùng tay khoác tay anh T và nói là sáng mày nói một kiểu, chiều mày nói một kiểu rồi dùng tay đấm vào ngực anh T. Sau đó Q., C và P ra về. Lúc này bị đánh đau nên anh T lại thừa nhận đã lấy trộm lan của An và nói muốn trả bằng tiền cho An, được An đồng ý. An nói hai giỏ lan trị giá 14.000.000 đồng và bảo anh T phải trả đủ số tiền trên cho An thì mới được về. Do không có tiền nên anh T nhờ anh N đi vay tiền về trả cho An. Sau đó anh N, anh Q. (sinh năm 2002), anh C và anh Sơn ra về. Lúc này, tại nhà của L.V.A chỉ còn An, T., T. và anh T. An đưa điện thoại cho anh T để gọi điện cho chị VTL, sinh năm 1989, trú tại thôn T, xã NP, huyện LN, tỉnh B.G (là chị gái ruột của anh T) và chị NTL, sinh năm 1981, trú tại thôn CV, xã KL, huyện L.N, tỉnh B.G (là dì ruột của anh T) để vay tiền nhưng không vay được. Khoảng 18 giờ anh T. về nhà để tắm, đến khoảng 19 giờ anh T. một mình đi xe máy quay lại nhà An thấy anh Thực và anh T. vẫn ở đó cùng An. Sau đó anh T. vào ngồi cạnh T. và lấy điện thoại ra chơi điện tử. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày không thấy anh Ngọc mang tiền đến, anh T cũng không vay được tiền nên An đã lấy giấy và bút đưa cho anh T yêu cầu anh T viết giấy vay nợ An số tiền 100.000.000 đồng thì An mới cho anh T về. Do bị nhóm của An đánh, bắt, giữ cả ngày và muốn được ra về nên anh T đã viết giấy vay nợ An số tiền 100.000.000 đồng. Quá trình An bắt anh T viết giấy vay nợ, T. và T. không tham gia, không đánh đập hay có lời nói gì ép anh T viết giấy vay nợ cho An mà T. vừa chơi trò chơi điện tử trên điện thoại vừa chụp ảnh anh T viết, T. cũng dùng điện thoại di động của mình chụp ảnh lại việc anh T viết giấy vay nợ. Sau khi viết xong anh Thực ký tên vào phần “ĐẠI DIỆN BÊN B”, An ký tên vào phần “ĐẠI DIỆN BÊN A” và An có nhờ anh T. ký vào phần người làm chứng, T. đồng ý và ký tên. Sau đó An gọi điện thoại cho anh N và anh C đến đón anh T về nhà.

Ngày 09/5/2020 anh T đã có đơn trình báo gửi Phòng Cảnh sát hình sự C an tỉnh B.G về việc bị nhóm của An bắt giữ và đề nghị giải quyết.

Cùng ngày 09/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G tiến hành kiểm tra camera an ninh của gia đình anh LVH phát hiện có hình ảnh thể hiện quá trình nhóm của An đến bắt, giữ anh T. Cơ quan điều tra đã tiến hành sao chụp màn hình in ra 23 (hai mươi ba) bức ảnh, đồng thời trích xuất toàn bộ dữ liệu video có liên quan đến vụ việc từ đầu thu camera nêu trên vào đĩa DVD, khi thu giữ được niêm phong theo đúng quy định.

Ngày 10/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G đã tiến hành xem xét dấu vết trên thân thể của anh V.V.T phát hiện thấy trên đỉnh đầu có 01 (một) vết rách da có kích thước (0,5 x 0,5)cm.

Ngày 10/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G đã tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của L. V.A, C. Q. Q, V. D. L. Quá trình khám xét khẩn cấp nơi ở của CQ Q., VDL không thu giữ tài liệu, đồ vật gì liên quan đến hành vi phạm tội của các đối tượng. Thu giữ tại nơi ở của LVA: 01 (một) Giấy chứng nhận đăng ký hộ kinh doanh số D8008159 của Phòng tài chính huyện L.N cấp cho L.V.A; 01 (một) Hợp đồng ủy quyền sử dụng xe ô tô 98A-174.34 của C ty cổ phần TM&VT Hoàng Anh; 18 (mười tám) tờ hợp đồng cho cá nhân vay tiền của L. V.A; Trong đó có 01 (một) giấy vay tiền đề tên V.V.T; 01 (một) sổ hộ khẩu photo sao y bản chính của chủ hộ TTTH; 01 (một) Hộ chiếu số 05243796 mang tên Đ.Đ.T; 01 (một) Chứng minh thư nhân dân mang tên L.V.A; 01 (một) Chứng minh thư nhân dân mang tên NVK; 01 (một) Đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 98L6-3737 mang tên NMH; 01 (một) Đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 98M1-2400 mang tên LVV; 01 (một) Đăng ký xe mô tô biển kiểm soát 98E1-47676 mang tên NDD; 01 (một) Quyển sổ giấy ô ly, nhãn hiệu REWARD NOTEBOOK; 01 (một) Tờ giấy A4 có ghi các chữ số ở hai mặt; 01 (một) Bút bi nhãn hiệu Tan Hai mực màu đen; Tiền ngân hàng nhà nước Việt Nam: 3.600.000 đồng (ba triệu sáu trăm nghìn đồng); 01 (một) Điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 7 plus màu đen, số IMEI: 353815083294185; 01 (một) Ô tô con nhãn hiệu CHEVROLET màu sơn đen, biển số 98A-174.34; 01 (một) vật bằng kim loại có hình dạng khẩu súng, trên nòng có chữ CZ83 CAL 7.65 BROWNING MADE IN CHINA; 02 (hai) thanh kiếm treo trên tường; 01 (một) gậy gỗ hình tròn dài 85,5cm; 01 (một) ống sắt hình tròn dài 72cm, đường kính 21 cm; 01 (một) ống sắt hình tròn dài 93,5cm; 01 (một) hộp sắt rỗng dài 89cm, rộng 2,4cm; 01 (một) áo ba lỗ màu cam, trên áo có ghi chữ welldone; 01 (một) quần ngố bò màu xanh, trên quần có in chữ No05 DESIGN; 01 (một) đôi dép có in chữ VERSACE màu đen; 01 (một) gậy rút bằng kim loại, có tay cầm màu đen; 01 (một) gậy bóng chày bằng kim loại màu đỏ, tay cầm dán băng dính màu đen có chữ BAT; 01 (một) tuýp bằng kim loại dài 63,4cm, đường kính 17cm màu trắng.

Cùng ngày 10/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G thu giữ của V.D.T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX số IMEI: 357264094685022, màu vàng, lắp sim số 0962362666 và 01 (một) ô tô nhãn hiệu KIA CERATO màu trắng, biển số 98A-193.35; thu giữ của bà Đ.T.T, sinh năm 1972, trú tại thôn TV, xã QS, huyện L.N, tỉnh B.G (là mẹ của L.V.A): 01 (một) đầu thu dữ liệu camera màu trắng, nhãn hiệu KB VISION mặt dưới có gắn mã vạch: 3T037A9PAZ564EA; Thu giữ của L.H.T: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX màu vàng gold có số IMEI: 357269094753746 bên trong lắp sim số 0966013665. Cùng ngày 10/5/2020 Cơ quan điều tra tiến hành kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Iphone Xs Max của V.D.T, phát hiện trong mục “Danh bạ” có lưu liên hệ tên “Xe An 16” số điện thoại 0369566366. T. khai đây là số điện thoại của L.V.A. Trong mục “Danh sách cuộc gọi” phát hiện các cuộc gọi liên quan đến “Xe An 16” vào ngày 08/5/2020. Trong mục “Hình ảnh” phát hiện các hình ảnh liên quan đến việc bắt, giữ và ép anh T viết giấy vay nợ L. V.A ngày 08/5/2020. Tiến hành kiểm tra phương tiện là xe ô tô biển số 98A-193.35, không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì. Kiểm tra điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XSMAX màu vàng gold có số IMEI: 357269094753746 bên trong lấp sim số 0966013665 của L.H.T, phát hiện trong thư mục ảnh có 05 (năm) ảnh chụp ngày 08/5/2020 thể hiện việc L.V.A đang yêu cầu anh T viết giấy vay nợ; Tiến hành kiểm tra đầu thu dữ liệu camera màu trắng, nhãn hiệu KB VISION mặt dưới có gắn mã vạch: 3T037A9PAZ564EA do bà Thanh giao nộp phát hiện có hình ảnh liên quan đến vụ việc bắt giữ người, cơ quan điều tra đã tiến hành sao chụp màn hình in ra 23 (hai mươi ba) bức ảnh, đồng thời trích xuất toàn bộ dữ liệu video có liên quan đến vụ việc từ đầu thu camera nêu trên

Cùng ngày 10/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra c an tỉnh B.G đã ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với L.V.A, C. Q. Q, V. D. L. Quá trình bắt giữ thu giữ của L.V.A 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone X màu trắng, số IMEI 3T3 046093736334; thu giữ của C. Q. Q 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu trắng, số seri 357336082387686 và số tiền 100.000 đồng; thu giữ của V. D. L 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Huawei màu vàng nhạt, số IMEI 1: 860906034765644, số IMEI 2: 860906034805447 và 01 (một) Chứng minh thư nhân dân mang tên V. D. L.).

Ngày 11/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G đã tiến hành khám nghiệm hiện trường tại đình anh L.V.H, sinh năm 1979, trú tại thôn Sậy, xã Trù Hựu, huyện L.N, tỉnh B.G; hiện trường tại Đường liên xã Trù Hựu - Kiên Thành thuộc thôn Trung Mới, xã KT, huyện L.N, tỉnh B.G và hiện trường tại gia đình L. V.A, sinh năm 1990, trú tại thôn Thượng Vũ, xã QS, huyện L.N, tỉnh B.G.

Ngày 11/5/2020 và ngày 15/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G đã ra Lệnh khám xét số 40, 41 đối với chỗ ở của C. Q. Q và Vũ Duy Luận. Quá trình khám xét thu giữ tại nơi ở của Chu Quốc Q. 01 (một) quần soóc màu đen có chữ Adidas, 01 (một) áo cộc tay màu đen có chữ PUMA và chữ PINESTQUACITY; tại nơi ở của VDL không thu giữ đồ vật, tài liệu gì có liên quan.

Ngày 10/5/2020 và ngày 11/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra c an tỉnh B.G đã cho V.D.T và L.V.A quan sát các hình ảnh được trích xuất từ điện thoại của V.D.T, yêu cầu giải thích rõ nội dung của từng ảnh. Lời khai của T. và An là phù hợp với nhau, phù hợp với những hình ảnh đã trích xuất và diễn biến vụ việc. Trong các ngày 10, 14, 15/5/2020 Cơ quan điều tra tiến hành cho anh V.V.T, L.V.A, C. Q. Q, G.V.C, V. D. L nhận dạng qua ảnh đối với L.H.T, V.D.T, anh LVN, L.V.A, C. Q. Q, G.V.C, V. D. L. Kết quả anh T nhận dạng được L.H.T, V.D.T, anh LVN, L.V.A, C. Q. Q, G.V.C, V. D. L, các bị can đều nhận dạng được nhau. Ngày 13/5/2020 và ngày 15/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra c an tỉnh B.G tiến hành cho C. Q. Q, L.V.A, V. D. L, G.V.C quan sát 23 (hai mươi ba) tấm ảnh được in từ camera an ninh của gia đình anh LVH. Kết quả các bị can đều khai trong bản ảnh này là những hình ảnh ghi lại diễn biến quá trình các bị can đến tìm và bắt, giữ anh T tại quán internet của gia đình anh H vào ngày 08/5/2020.

Ngày 18/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 172/QĐ-CSHS-P4 gửi Phòng kỹ thuật hình sự - C an tỉnh B.G giám định chữ ký, chữ viết của L.V.A, V.V.T và L.H.T trên giấy vay tiền đề ngày 8/5/2020, người vay tiền là Lý Văn T. Tại bản Kết L. giám định số 743/KL-KTHS ngày 12/6/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự - C an tỉnh B.G kết L.:

“+ Chữ ký dạng chữ viết, chữ viết “An - L. V.A ” tại mục “Đại diện bên A ”, các chữ viết có nội dung “8 ... 5 ... 20” trong dòng chữ “ Ngày 8 tháng 5 năm 2020”, “10/7/2018”, “15% trên 1 tháng”, “L.H.T”, “121608441”, “24/4/2010”, “BG” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký của L.V.A trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M1, M2, M3) là do cùng một người ký, viết ra.

+ Chữ ký dạng chữ viết, chữ viết “T- V.V.T” tại mục “Đại diện bên B” và chữ viết tại mục “II. Bên B” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu a - trừ dòng chữ viết có nội dung “15% trên 1 tháng”) so với chữ ký, chữ viết của V.V.T trên các tài liệu mẫu (ký hiệu từ M6 đến M10) là do cùng một người ký, viết ra.

+ Chữ ký dạng chữ viết, chữ viết “T. -L.H.T” dưới mục “Người làm chứng” trên tài liệu cần giám định (ký hiệu A) so với chữ ký, chữ viết của L.H.T trên các tài liệu mẫu (ký hiệu M4, M5) là do cùng một người ký, viết ra”.

Ngày 18/5/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an tỉnh B.G đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 173/QĐ-CSHS-P4 gửi Phòng kỹ thuật hình sự c an tỉnh B.G đối với một vật bằng kim loại có hình dạng khẩu súng, trên nòng có chữ CZ83 CAL 7.65 BROWNING MADE IN CHINA. Tại bản Kết L. giám định số 651/KL-KTHS ngày 28/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự c an tỉnh B.G kết L.: “Mẫu vật gửi giám định là bật lửa hình khẩu súng, không phải vũ khí Q. dụng và không có tính năng tác dụng tương tự vũ khí Q. dụng.”.

Ngày 01/7/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra C an huyện L.N đã thu giữ của G.V.C: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Huawei Honor màu đen - xám đã qua sử dụng; 01 (một) quần bò màu đen, trên quần không có nhãn hiệu; 01 (một) đôi giày da màu đen, không có nhãn hiệu.

Ngày 14/10/2020 Cơ quan Cảnh sát điều tra c an huyện L.N đã tiến hành cho Đ.V.Đ xem video thu giữ tại gia đình anh LVH, kết quả Đ. khai nhận khi nhóm của An đua anh T từ cổng quán internet của gia đình anh Hưng đến khu vực đỗ xe ô tô, thấy anh T dừng lại không chịu đi theo yêu cầu của L.V.A, nên Đ. đã dùng tay đẩy vào lưng anh T để ép anh T đi theo yêu cầu của L. V.A.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 10/2021/HS - ST ngày 01/2/2021 của Tòa án nhân dân huyện L.N đã căn cứ vào khoản 1 Điều 157; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo C. Q. Q 08 (tám) tháng tù, bị cáo V. D. L (08 tám) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”.

Ngoài ra án còn tuyên xử lý vật chứng, án phí, quyền kháng cáo cho bị cáo, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Án xử xong, ngày 09/02/2021 bị cáo Q. và bị cáo L. kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Q., bị cáo L. vẫn giữ nguyên nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ và được hưởng án treo với lý do: Các bị cáo phạm tội lần đầu ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Bị cáo Q. có bà nội là mẹ của liệt sỹ, là lao động duy nhất; bị cáo L. không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền C tố tại phiên tòa, sau khi phân tích hành vi phạm tội của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ, tại phiên tòa các bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ nào mới, đề nghị HĐXX không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên hình phạt của bản án sơ thẩm. Bị cáo Q. phải chịu án phí HSPT, bị cáo L. là hộ cận nghèo không phải chịu án phí HSPT.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tính hợp pháp của đơn kháng cáo: đơn kháng cáo của các bị cáo đã được làm trong thời hạn quy định của pháp luật theo đúng quy định tại Điều 331, 332, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 nên được coi là đơn kháng cáo hợp pháp. HĐXX chấp nhận xem xét giải quyết đơn kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

[2] Xét hành vi phạm tội của bị cáo:

Buổi sáng ngày 08/5/2020, do nghi ngờ anh VVT, sinh năm 1993, trú tại thôn Cấm Vải, xã Kiên Lao, huyện L.N, tỉnh B.G trộm cắp 02 giỏ lan Phi Điệp của mình nên L.V.A đã trực tiếp rủ G.V.C và V.D.T đi tìm anh T để hỏi về việc trộm cắp Lan của An. C. Q. Q, V. D. L và Đ.V.Đ biết An đi tìm T và đi theo cùng. Khoảng 10 giờ cùng ngày khi phát hiện thấy anh Thực đang ở trong quán Internet của anh LVH ở thôn Sậy Cầu, xã Trù Hựu, huyện Lục Ngạn thì An, Q., C, Luận, Đ. đã có hành vi dùng vũ lực bắt giữ anh V. V.T đua về nhà An ở thôn Thượng Vũ, xã QS, huyện L.N, tỉnh B.G. Vũ Duy T. không trực tiếp tham gia bắt, giữ anh Thực tuy nhiên T. biết việc các đối tượng trên bắt giữ anh Thực nhung vẫn sử dụng xe ô tô nhãn hiệu KIA CERATO, biển số 98A-193.35 làm phương tiện chở các đối tượng trên trong quá trình bắt, giữ anh T. Sau khi giữ anh T ở nhà An đến khoảng 20 giờ 00 phút cùng ngày thì An đã có lời nói đe dọa ép buộc anh T phải viết giấy vay nợ An số tiền 100.000.000 đồng xong An mới cho anh Thực về.

[3] Xét nội dung kháng cáo của các bị cáo Q. và L. thấy:

Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào tính chất mức độ hành vi phạm tội, vai trò, nhân thân và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đã tuyên phạt C. Q. Q 08 tháng tù, V. D. L 08 tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật” là có căn cứ, đúng pháp luật. Bởi lẽ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền con người, quyền tự do của C dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương.

Nay các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, Hội đồng xét xử thấy tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo tiếp tục có thái độ khai báo thành khẩn, tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo Q. nêu lý do bị cáo là lao động duy nhất, bị cáo có bà nội là mẹ liệt sỹ, nhưng không có căn cứ để chấp nhận; bị cáo L. tại phiên tòa không đưa ra được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Bản án sơ thẩm đã căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và áp dụng hình phạt đối với 2 bị cáo với mức án 08 tháng tù theo khung hình phạt tại khoản 1 Điều 157 Bộ luật Hình sự là phù hợp. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, cần giữ nguyên mức hình phạt của bản án sơ thẩm.

[4] Về án phí: Do kháng cáo của bị cáo C. Q. Q không được chấp nhận, bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm; kháng cáo của bị cáo V. D. L không được chấp nhận nhưng bị cáo L. là hộ cận nghèo, bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị, cấp phúc thẩm không xem xét giải quyết.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

[1] Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355, Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo C. Q. Q và bị cáo V. D. L. Giữ nguyên hình phạt của Bản án sơ thẩm.

[2] Áp dụng khoản 1 Điều 157; điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38; Điều 17; Điều 58 Bộ luật hình sự:

- Xử phạt bị cáo C. Q. Q 08 (Tám) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2020 đến ngay 30/6/2020.

- Xử phạt bị cáo V. D. L 08 (Tám) tháng tù về tội “Bắt, giữ người trái pháp luật”, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/5/2020 đến ngày 18/7/2020.

[2] Về án phí phúc thẩm: Bị cáo C. Q. Q phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm. Bị cáo V. D. L không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

[3] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2021/HS-PT ngày 10/05/2021 về tội bắt, giữ người trái pháp luật

Số hiệu:52/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;