TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH – TỈNH BẾN TRE
BẢN ÁN 52/2021/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2021 VỀ LY HÔN GIỮA CHỊ B VÀ ANH C
Ngày 28 tháng 6 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình sơ thẩm thụ lý số: 227/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 4 năm 2021 về việc ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 35/2021/QĐXX-ST ngày 01 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:
* Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Như B, sinh năm 1977; Nơi cư trú: ấp P, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
* Bị đơn: Anh Nguyễn Chí C, sinh năm 1976;
Nơi cư trú: ấp P, xã T, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre.
Chị Băng và anh Cường vắng mặt tại phiên tòa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt đề ngày 01/6/2021, lời trình bày tại các biên bản trong quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn chị Phạm Thị Như B trình bày:
Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Chí C kết hôn vào năm 1997, hôn nhân do anh chị tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quới Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 29/5/2001. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng gia đình vợ. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh C thay đổi công việc nên thường xuyên đi nhậu;
khi nhậu say về lại chửi mắng, dùng lời lẽ xúc phạm và hăm dọa chị. Anh C còn có nhiều mối quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ khác. Thời gian kéo dài, gia đình hai bên đã khuyên anh C nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh C không thể hàn gắn được nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh C.
Chị và anh C đều có công việc và thu nhập ổn định nên không yêu cầu xem xét đến việc cấp dưỡng cho nhau sau khi ly hôn.
Về con chung: có 02 con chung tên Nguyễn Hiếu N, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1999 và Nguyễn Hiếu Nh, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2009. Sau khi ly hôn, chị yêu cầu được nuôi con chung là Hiếu Nh, không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Riêng cháu Hiếu N đã trưởng thành và có công việc ổn định nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung và nợ chung: Chị và anh C không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Bị đơn anh Nguyễn Chí C trong quá trình giải quyết vụ án mặc dù đã được Tòa án tống đạt thông báo thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải, hồ sơ khởi kiện photo theo đúng qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự nhưng anh C đều vắng mặt nên Tòa án không ghi nhận được ý kiến hay yêu cầu của anh C.
Tại phiên tòa sơ thẩm Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phát biểu ý kiến: Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, thư ký và người tham gia tố tụng đã tuân thủ theo quy định của pháp luật. Về nội dung: Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh C đã kéo dài nhiều năm nhưng vẫn không khắc phục được. Trong suốt quá trình tố tụng, anh C vắng mặt; điều đó cho thấy anh C không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng nên có căn cứ xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh C đã trầm trọng, hôn nhân có kéo dài cũng không hạnh phúc nên đề nghị Tòa án chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị B theo Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình. Về con chung, có 02 con chung tên Nguyễn Hiếu N, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1999 và Nguyễn Hiếu Nh, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2009; xét thấy cháu Nh đang sống chung với chị B, cháu Nh có nguyện vọng được sống với chị B, chị B cũng có yêu cầu được nuôi cháu Nh, anh C không có yêu cầu gì về con nên đề nghị Tòa chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị B; chị B không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Tòa án ghi nhận. Riêng cháu N đã trưởng thành và có công việc ổn định nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung chị B khai không có và không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Tòa án ghi nhận.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên Tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Quan hệ tranh chấp giữa chị Phạm Thị Như B và anh Nguyễn Chí C là tranh chấp về ly hôn, bị đơn anh C hiện đang cư trú tại xã Quới Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện Châu Thành đã tống đạt hợp lệ thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và phiên hòa giải nhiều lần nhưng bị đơn anh C vắng mặt không có lý do. Do đó, Tòa án đã tiến hành lập biên bản không hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật Tố tụng dân sự và đưa vụ án ra xét xử. Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn anh C vẫn vắng mặt không có lý do mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2, chị B có đơn xin vắng mặt. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị B và anh C.
[2] Về hôn nhân: Chị Phạm Thị Như B và anh Nguyễn Chí C kết hôn vào năm 2001, hôn nhân do anh chị tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Quới Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre vào ngày 29/5/2001 (số 11/2013, quyển số I/2001) nên hôn nhân của anh chị là hôn nhân hợp pháp. Chị B xác định nguyên nhân vợ chồng mâu thuẫn là do anh C thường xuyên đi nhậu về chửi mắng, dùng lời lẽ xúc phạm và hăm dọa chị B; anh C còn có nhiều mối quan hệ bất chính với nhiều người phụ nữ khác; gia đình hai bên đã khuyên anh C nhiều lần nhưng không có kết quả. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhiều lần mở phiên hòa giải để hai bên hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng anh C không tham gia phiên hòa giải; điều đó cho thấy, anh C không có thiện chí mong muốn vợ chồng đoàn tụ. Đồng thời, tại biên bản xác minh của Tòa án, các thành viên khác trong gia đình anh C (mẹ ruột và con ruột anh C) đều xác định mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh C đã tồn tại nhiều năm nay và nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn vợ chồng đúng như chị B trình bày. Từ đó có cơ sở để xác định, mâu thuẫn vợ chồng giữa chị B và anh C đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nếu duy trì quan hệ hôn nhân này sẽ ảnh hưởng đến đời sống bình thường của các thành viên trong gia đình nên ly hôn là biện pháp tốt nhất cho cả hai. Do đó, căn cứ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị B.
[3] Về con chung: Theo Giấy khai sinh số 22 ngày 07 tháng 6 năm 2001 và Giấy khai sinh số 78 ngày 23 tháng 12 năm 2009 do Ủy ban nhân dân xã Quới Thành, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre cấp thì chị B và anh C có 02 người con chung tên Nguyễn Hiếu N, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1999 và Nguyễn Hiếu Nh, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2009. Chị B yêu cầu được nuôi con chung là Hiếu Nh sau khi ly hôn, anh C không có yêu cầu gì về con. Xét thấy, cháu Nh hiện nay đang sống cùng chị B, cháu Nh cũng có nguyện vọng được sống cùng chị B. Do đó, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con chung và không làm xáo trộn cuộc sống hiện nay của con, Hội đồng xét xử giao cho chị trực tiếp nuôi cháu Nh là phù hợp theo Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình. Chị B không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con nên được Hội đồng xét xử ghi nhận. Riêng cháu N đã trưởng thành và có công việc ổn định nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Chị B khai không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết. Xét thấy, anh C vắng mặt, Tòa án không ghi nhận được ý kiến của anh C về phần tài sản chung và nợ chung nên Tòa án không xem xét.
[5] Về án phí: Chị B phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đồng.
[6] Từ những nhận định nêu trên, xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 147, 207, 227, 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
Áp dụng các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án;
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Cho chị Phạm Thị Như B ly hôn với anh Nguyễn Chí C.
2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Hiếu Nh, sinh ngày 30 tháng 11 năm 2009 cho chị B trực tiếp nuôi dưỡng; ghi nhận việc chị B không yêu cầu anh C cấp dưỡng nuôi con. Riêng con chung tên Nguyễn Hiếu N, sinh ngày 14 tháng 10 năm 1999 đã trưởng thành nên Tòa án không xem xét.
Anh C có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con mà không ai được cản trở. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như cấp dưỡng nuôi con.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Tòa án không xem xét.
4. Về án phí: Chị B phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000122 ngày 09/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre. Đương sự đã nộp đủ án phí.
Chị B, anh C vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 52/2021/HNGĐ-ST ngày 28/06/2021 về ly hôn giữa chị B và anh C
Số hiệu: | 52/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Bến Tre |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 28/06/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về