TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÁT XÁT - TỈNH LÀO CAI
BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 22/12/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢNa
Ngày 22 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bát Xát, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 49/2020/TLST- HS ngày 17 tháng 11 năm 2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2020/QĐXXST- HS ngày 09 tháng 12 năm 2020 đối với bị cáo:
Họ và tên: Lý Nẩy C - Sinh ngày 23/9/1997 tại huyện B, tỉnh Lào Cai. Nơi cư trú: Thôn N, xã M, huyện B, tỉnh Lào Cai.
Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Dao; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lý Láo S - Sinh năm 1968 và bà Chảo Lù M - Sinh năm 1970 (Đã chết); Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền sự: Không; Tiền án: 01 tiền án. Tại Bản án số 48/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát xử phạt Lý Nẩy C 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 14/12/2019, Lý Nẩy C chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Tính đến ngày phạm tội, Lý Nẩy C chưa được xóa án tích.
Nhân thân: Bản án số 18/2015/HSST ngày 26/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát xử phạt Lý Nẩy C 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản. Ngày 26/6/2016, Lý Nẩy C chấp hành xong thời gian thử thách của án treo.
Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/10/2020, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Lào Cai. “Có mặt”.
- Người bào chữa cho bị cáo: Bà Nguyễn Thị Hương Thủy - Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Lào Cai. “Có mặt”
- Bị hại: Bà Hoàng Thị M - Sinh năm 1968 Nơi cư trú: Thôn C, xã M, huyện B, tỉnh Lào Cai. “Vắng mặt” (Có đơn xin xét xử vắng mặt).
- Người chứng kiến: Anh Lò Văn L- Sinh năm 1982 Nơi cư trú: Thôn C, xã M, huyện B, tỉnh Lào Cai. “Vắng mặt”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 23 giờ 30 phút ngày 22/10/2020, Lý Nẩy C điều khiển xe mô tô biển kiểm soát 24V1 - 076.70 của Chảo Láo L (tên gọi khác: Nghĩa) - Sinh năm 1998, trú tại thôn C, xã B, huyện B đi từ thôn Km 0, xã Bản Vược, huyện Bát Xát về nhà tại thôn Ná Rin, xã Mường Vi, huyện Bát Xát. Đến khoảng 00 giờ 10 phút ngày 23/10/2020, Lý Nẩy C điều khiển xe mô tô đi đến thôn Cửa Cải, xã Mường Vi, huyện Bát Xát thì nảy sinh ý định trộm cắp tài sản để bán lấy tiền tiêu xài. Lý Nẩy C dựng xe ở lề đường rồi đi bộ khoảng 01 km đến nhà bà Hoàng Thị M, sinh năm 1968, trú tại địa chỉ trên, Lý Nẩy C đi ra sau nhà, dùng đèn pin soi thì thấy 01 (một) con dê cái màu nâu đen đang buộc cách nhà 30 (ba mươi) mét là tài sản của gia đình bà Hoàng Thị M. Lý Nẩy C dùng tay phải cởi nút buộc dê và dắt ngược lên đồi cây cách nhà bà Hoàng Thị M khoảng 01 km để trốn. Đến khoảng 05 giờ 00 phút cùng ngày, Lý Nẩy C dắt con dê trộm cắp được đi đến gần chỗ để xe mô tô thì bị tổ công tác của Công an xã Mường Vi, huyện Bát Xát phát hiện bắt quả tang. Thu giữ 01 con dê cái màu nâu đen, khối lượng 30 (ba mươi) kg; 01 xe mô tô biển kiểm soát 24V1-076.70; 01 đèn pin loại có dây đeo ở đầu, một mặt có dòng chữ LED, SG - 516.
Ngày 26/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bát Xát đã ra yêu cầu định giá tài sản số 13 đối với tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án.
Kết luận định giá tài sản số 10/KL.HDĐG ngày 29/10/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bát Xát kết luận: 01 (một) con dê cái, lông màu đen, sừng dài 12 cm, cân nặng 30 kg, thể trạng trung bình có giá trị 3.600.000 (Ba triệu sáu trăm nghìn) đồng.
Cáo trạng số 47/CT-VKS ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Lý Nẩy C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa, bị cáo Lý Nẩy C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát đã truy tố.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát giữ quyền công tố, luận tội và tranh luận: Giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lý Nẩy C về tội danh theo bản cáo trạng đã truy tố. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 ; Điều 38 của Bộ luật Hình sự tuyên bố bị cáo Lý Nẩy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, xử phạt bị cáo Lý Nẩy C với mức án từ 06 tháng đến 09 tháng tù. Không phạt bổ sung đối với bị cáo.
Về vật chứng vụ án: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 đèn pin loại có dây đeo ở đầu, một mặt có dòng chữ LED, SG - 516.
Tuyên án phí và quyền kháng cáo cho bị cáo, bị hại theo quy định của pháp luật. Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Lý Nẩy C: Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát truy tố bị cáo Lý Nẩy C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Bị cáo Lý Nẩy C là người dân tộc thiểu số, trình độ nhận thức và hiểu biết pháp luật hạn chế, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, cho bị cáo được hưởng mức án 06 tháng tù. Do bị cáo có hoàn cảnh khó khăn, không có việc làm, bản thân nghiện chất ma túy vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Bát Xát, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Lý Nẩy C đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên toà phù hợp lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của bị hại, người chứng kiến, tang vật thu giữ và kết luận định giá. Bị cáo Lý Nẩy C là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết xã hội và pháp luật, nhận thức được trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng vào ngày 23/10/2020 Lý Nẩy C đã trộm cắp của bà Hoàng Thị M 01 con dê cái, màu nâu đen, nặng 30 kg. Theo kết luận định giá của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bát Xát 01 con dê bị cáo chiếm đoạt của gia đình bà Hoàng Thị M có giá trị là 3.600.000 đồng. Như vậy, có đủ cơ sở để kết luận bị cáo Lý Nẩy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bát Xát đã truy tố bị cáo Lý Nẩy C về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ.
Bị cáo Lý Nẩy C có nhân thân xấu, bị cáo là đối tượng thường xuyên sử dụng chất ma túy; Tại bản án số 18/2015/HSST ngày 26/6/2015 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát xử phạt Lý Nẩy C 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo về tội trộm cắp tài sản. Ngày 26/6/2016, Lý Nẩy C chấp hành xong thời gian thử thách của án treo; Bị cáo còn có 01 tiền án: Tại bản án số 48/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát xử phạt Lý Nẩy C 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 14/12/2019, Lý Nẩy C chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Tính đến ngày phạm tội, Lý Nẩy C chưa được xóa án tích.
Từ những phân tích ở trên cho thấy Lý Nẩy C là người coi thường pháp luật, mặc dù bị cáo đã nhiều lần bị xét xử về hành vi trộm cắp tài sản song bị cáo không lấy đó làm bài học để tu trí, rèn luyện bản thân trở thành người có ích cho xã hội, chỉ vì lười lao động, muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã tiếp tục cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Vì vậy cần phải xét xử một mức án nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng giáo dục, cải tạo và phòng ngừa chung.
[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Tại bản án số 48/2018/HS-ST ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Bát Xát xử phạt Lý Nẩy C 01 năm 03 tháng tù về tội trộm cắp tài sản. Ngày 14/12/2019, Lý Nẩy C chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương. Tính đến ngày phạm tội, Lý Nẩy C chưa được xóa án tích. Do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm được quy đinh tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.
[4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
Tài sản bị cáo Lý Nẩy C trộm cắp đã được trả lại bị hại, bị cáo phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai nhận về hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối cải ; Vì vậy cần xem xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm h, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.
Đối với ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Lý Nẩy C đề nghị Hội đồng xét xử xét xử bị cáo mức án 06 tháng tù không được chấp nhận do bị cáo Lý Nẩy C là người có năng lực trách nhiệm hình sự, hiểu biết xã hội và pháp luật nhưng bị cáo đã coi thường pháp luật; bị cáo nhân thân xấu và có 01 tiền án, do đó mức án đối với Lý Nẩy C theo đề nghị của người bào chữa không đủ sức răn đe, giáo dục đối với bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của bị cáo tại phiên tòa, bị cáo là người lao động tự do, không có việc làm ổn định, là đối tượng nghiện ma túy nên không có tài sản và thu nhập gì. Vì vậy không áp dụng hình phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự:
Bị hại đã nhận lại tài sản bị trộm cắp, không yêu cầu bị cáo bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về vật chứng vụ án:
Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 24V1-076.70 thu giữ của Lý Nẩy C. Quá trình điều tra đã chứng minh làm rõ chiếc xe mô tô trên là của anh Chảo Láo L (tên gọi khác: N) - Sinh năm 1998, trú tại thôn C, xã B, huyện B. Anh Chảo Láo L không biết Lý Nẩy C mượn chiếc xe mô tô trên sử dụng vào việc trộm cắp tài sản nên cơ quan điều tra đã trả lại cho anh Chảo Láo L là đúng quy định.
Đối với 01 chiếc đèn pin loại có dây đeo ở đầu, một mặt có dòng chữ LED, SG - 516 Lý Nẩy C sử dụng vào việc trộm cắp tài sản, đo đó chiếc đèn pin là vật chứng của vụ án cần tịch thu tiêu hủy.
[8] Bị cáo phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về trách nhiệm hình sự, hình phạt:
Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; Điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự: Tuyên bố bị cáo Lý Nẩy C phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo Lý Nẩy C 08 (tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/10/2020.
2. Về xử lý vật chứng:
Căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 01 chiếc đèn pin loại có dây đeo ở đầu, một mặt có dòng chữ LED, SG- 516.
(Vật chứng thể hiện tại Biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 17 tháng 11 năm 2020 giữa Công an huyện Bát Xát và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bát Xát).
3. Về án phí:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo Lý Nẩy C phải chịu 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.
4. Quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị hại được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 52/2020/HS-ST ngày 22/12/2020 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 52/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Bát Xát - Lào Cai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 22/12/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về