Bản án 52/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 52/2020/HS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 62/2020/TLST-HS ngày 22 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 69/2020/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 8 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lý V; Sinh ngày: 07/6/1995; Tại: Tỉnh Sóc Trăng; Thường trú: Ấp TS, xã VH, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lý D và bà: Lâm Thị Si L; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 16/4/2020. (có mặt)

2. Thạch S; Sinh ngày: 01/01/1997; Tại: Tỉnh Sóc Trăng; Thường trú: Khóm CLAB, phường B, thị xã VC, tỉnh Sóc Trăng; Nghề nghiệp: Làm công; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Khmer; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Thạch D (chết) và bà: Huỳnh Thị Sóc H; Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Không; Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 16/4/2020. (có mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Bà Dương Thị Ngọc P; Sinh năm: Không rõ; Thường trú: Ấp TL, xã TS, huyện TC, tỉnh Trà Vinh. (vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 20 giờ 50 phút ngày 16/4/2020, tổ công tác Đội cảnh sát hình sự Công an Quận 6 trên đường tuần tra phát hiện Thạch S đang điều khiển xe gắn máy biển số 84K6-5944 chở Lý V chạy đến trước nhà số 43-44 chợ Lò Gốm, Phường 11, Quận 6 có biểu hiện nghi vấn nên tiến hành kiểm tra. Qua kiểm tra, tổ công tác đã thu giữ trong túi phía quần sau bên phải của Lý V 01 gói nylon chứa tinh thể không màu (Lý V khai là ma túy đá), nên đã giao Lý V, Thạch S cùng vật chứng nêu trên cho Cơ quan điều tra Công an Quận 6 giải quyết.

Tại Cơ quan điều tra, Lý V, Thạch S đều khai: Khoảng 20 giờ ngày 16/4/2020, Lý V rủ Thạch S đi mua ma túy về sử dụng. Sau khi đồng ý, Thạch S điều khiển xe gắn máy biển số 84K6-5944 chở Lý V đến khu vực đường Lò Gốm, Phường 8, Quận 6 để Lý V đi bộ vào trong hẻm (không xác định được địa chỉ) mua từ một người thanh niên tên Phú (không rõ lai lịch) 01 gói ma túy đá giá 100.000 đồng, còn Thạch S đứng ngoài đầu hẻm trông xe. Sau khi mua xong, Lý V cất gói ma túy vào trong túi quần phía sau bên phải rồi quay ra để Thạch S chở về và khi vừa chạy đến trước nhà số 43-44 chợ Lò Gốm thì bị phát hiện bắt giữ như nêu trên. Ngoài ra, Lý V, Thạch S còn khai trước ngày bị bắt khoảng nửa tháng, cả hai có hùn tiền mua túy cùng sử dụng (Lý V hùn 100.000 đồng, Thạch S hùn 50.000 đồng. Riêng ngày 16/4/2020, tiền mua ma túy là của Lý V).

Tại Kết luận giám định số: 651/KLGĐ-H ngày 23 tháng 4 năm 2020, Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã kết luận: Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Lý V, các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Trương Đồng (người chứng kiến) và hình dấu Công an Phường 11, Quận 6 cần giám định là ma túy ở thể rắn, có khối lượng 0,1347g (không phẩy một ba bốn bảy gam), loại Methamphetamine.

Đối với người thanh niên tên Phú bán ma túy cho Lý V, Cơ quan điều tra không xác định được lai lịch.

Tại Cáo trạng số: 48/CT-VKS-Q6 ngày 22 tháng 7 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố các bị cáo Lý V, Thạch S về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, các bị cáo Lý V, Thạch S đều khai nhận chính các bị cáo đã thực hiện hành vi mua 01 gói ma túy đá giá 100.000 đồng tại khu vực hẻm (không nhớ địa chỉ) trên đường Lò Gốm, Phường 8, Quận 6 vào tối ngày 16/4/2020 để cùng sử dụng, nhưng chưa kịp sử dụng thì đã bị Công an phát hiện bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Lý V, Thạch S như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của các bị cáo cùng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với từng bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Lý V từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Phạt bị cáo Thạch S từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù về tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy» theo điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 chiếc xe gắn máy biển số 84K6-5944, số máy VHLFM152FMH-V01108263, không xác định được số khung nguyên thủy.

Tịch thu, tiêu hủy 01 gói ma túy, bên ngoài có ghi vụ số: 651/20 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương. Bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 0,0802 gam.

Trả lại bị cáo Thạch S 01 chiếc điện thoại di động phía trước ghi chữ Sony và 01 sim điện thoại số 0365238291 đã được niêm phong, bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Thạch S, các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Giang Hoàng Sơn (người chứng kiến) và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

Lời nói sau cùng, các bị cáo Lý V, Thạch S đều nhận thức được hành vi của các bị cáo là sai, là vi phạm pháp luật và xin Hội đồng xét xử phạt các bị cáo mức án nhẹ nhất để các bị cáo sớm trở về với gia đình, có cơ hội làm lại cuộc đời.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của các bị cáo Lý V, Thạch S tại phiên tòa là phù hợp với nhau và phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; Kết luận giám định; lời khai của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận các bị cáo Lý V, Thạch S đã cất giữ 0,1347 gam ma túy ở thể rắn (loại Methamphetamine) mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển hay sản xuất trái phép chất ma túy khác (các bị cáo khai mua số ma túy này để cùng sử dụng), là phạm tội «Tàng trữ trái phép chất ma túy». Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của các bị cáo Lý V, Thạch S không những đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về chế độ quản lý, trao đổi, cất giữ chất ma túy mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự, trị an chung.

Các bị cáo Lý V, Thạch S là những người đã trưởng thành, các bị cáo đều nhận thức được tác hại của ma túy, nhận thức được hành vi cất giữ ma túy là hành vi vi phạm pháp luật, nhưng để thỏa mãn lối sống không lành mạnh và nhất là xem thường pháp luật, nên các bị cáo đã cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, do đó các bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Đây là vụ án có đồng phạm mang tính giản đơn, với bị cáo Lý V là người bỏ tiền ra, trực tiếp liên lạc với người thanh niên tên Phú để mua ma túy và rủ rê bị cáo Thạch S sử dụng. Còn bị cáo Thạch S là người chở bị cáo Lý V đi mua ma túy.

[4] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo Lý V, Thạch S là nghiêm trọng, bởi ma túy nói chung và Methamphetamine nói riêng là chất gây nghiện độc hại, việc sử dụng ma túy đã gây tác hại rất lớn và ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe, làm mất khả năng lao động, học tập của chính người sử dụng và đây cũng chính là nguyên nhân gây ra các tệ nạn xã hội và tội phạm khác, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt các bị cáo những mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với các bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét các bị cáo tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu (chưa có tiền án - tiền sự), do đó Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo khi lượng hình tùy theo tính chất, mức độ, vai trò tham gia của từng bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 thì các bị cáo Lý V, Thạch S còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa cho thấy các bị cáo phạm tội không vụ lợi, là lao động tự do, điều kiện kinh tế còn khó khăn, vì vậy Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[6] Việc xử lý vật chứng: Chiếc xe gắn máy biển số 84K6-5944 mà các bị cáo Lý V, Thạch S sử dụng làm phương tiện phạm tội, theo Phiếu trả lời xác minh ngày 28/4/2020 của Phòng Cảnh sát giao thông Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL86) thì chiếc xe này có số máy VHLFM152FMH-V01108263, số khung RMNWCHSMN9H008263 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, số loại 110E, sơn màu Bạc Xám, dung tích 107), do bà Dương Thị Ngọc P, trú tại ấp TL, xã TS, huyện TC, tỉnh Trà Vinh đứng tên chủ xe. Tuy nhiên qua xác minh tại Công an TS, huyện TC được biết bà P hiện không có mặt tại địa phương, đi đâu không rõ nên Cơ quan điều tra Công an Quận 6 không tiến hành ghi lời khai được. Còn theo Bản kết luận giám định số: 1606/KLGĐ-X(Đ6) ngày 05/5/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL14) và Thông báo kết quả tra cứu vật chứng số: 163 ngày 09/6/2020 của Văn phòng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Thành phố Hồ Chí Minh (BL88) thì chiếc xe này có số máy VHLFM152FMH-V01108263, không xác định được số khung nguyên thủy và xe không có trong cơ sở dữ liệu xe máy vật chứng. Ngày 20/5/2020, Cơ quan điều tra Công an Quận 6 đã đề nghị thông báo tìm chủ hữu của chiếc xe gắn máy biển số 84K6-5944 trên Báo Công an Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng đến nay vẫn không có ai đến nhận. Bị cáo Thạch S khai chiếc xe là của cha bị cáo mua cho bị cáo sử dụng và xe không có giấy tờ. Như vậy, có đủ căn cứ xác định chiếc xe gắn máy biển số 84K6-5944 là xe cấm lưu hành (số khung bị mài sâu mất số), nên Hội đồng xét xử tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước theo quy định tại điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Riêng 01 gói ma túy, bên ngoài có ghi vụ số: 651/20 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương. Bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 0,0802 gam, là vật cấm lưu hành, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với chiếc điện thoại di động phía trước ghi chữ Sony và 01 sim điện thoại số 0365238291 đã được niêm phong, bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Thạch S, các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Giang Hoàng Sơn (người chứng kiến) và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6 thu giữ của bị cáo Thạch S. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định bị cáo đã hoặc sẽ dùng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

(theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 74/PNK ngày 22 tháng 5 năm 2020 của Công an Quận 6; Quyết định chuyển vật chứng số: 22/QĐ-VKS-Q6 ngày 22 tháng 7 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 6; Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 27 tháng 7 năm 2020 của Công an Quận 6 - BL19, 116, 121)

[7] Đối với người thanh niên tên Phú mà bị cáo Lý V khai bán ma túy cho bị cáo, hiện Cơ quan điều tra chưa xác định được lai lịch và tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị lúc nào Cơ quan điều tra bắt được làm rõ giải quyết sau, do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[8] Các bị cáo Lý V, Thạch S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố các bị cáo Lý V, Thạch S phạm tội: «Tàng trữ trái phép chất ma túy».

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Lý V 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 16/4/2020.

- Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; Điều 17; Điều 58; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Thạch S 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 16/4/2020.

- Căn cứ điểm a, điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, sung vào ngân sách nhà nước 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 84K6-5944, số máy VHLFM152FMH-V01108263, không xác định được số khung nguyên thủy.

Tịch thu, tiêu hủy 01 (một) gói ma túy, bên ngoài có ghi vụ số: 651/20 Q6, có chữ ký niêm phong lại của Giám định viên Nguyễn Mạnh Cường, cán bộ điều tra Bùi Thành Phương. Bên trong có tinh thể không màu có khối lượng 0,0802 gam.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Thạch S 01 (một) chiếc điện thoại di động phía trước ghi chữ Sony và 01 (một) sim điện thoại số 0365238291 đã được niêm phong, bên ngoài có dấu vân tay màu đỏ ghi tên Thạch S, các chữ ký ghi tên Nguyễn Tấn Phương (Điều tra viên), Nguyễn Giang Hoàng Sơn (người chứng kiến) và hình dấu Cơ quan điều tra Công an Quận 6.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Các bị cáo Lý V, Thạch S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2020/HS-ST ngày 20/08/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;