Bản án 52/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GÒ QUAO, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 52/2020/DS-ST NGÀY 22/09/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 22 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 45/2020/TLST-DS ngày 07 tháng 5 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2020/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 8 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 37/2020/QĐST-DS ngày 31 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng TMCP S.

Địa chỉ: số 266-268 đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, phường 8, Quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch Diễm – Chức vụ: Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lạc Hoài Phong - Chức vụ: Giám đốc Ngân hàng TMCP S – Chi nhánh Gò Quao.

Người được ủy quyền lại: Ông Trần Văn H – sinh năm 1990, có mặt.

Chức vụ: Phó Giám đốc Ngân hàng TMCP S – Chi nhánh Gò Quao.

Địa chỉ: Số 94 đường 3/2 khu phố Phước Trung 2, thị trấn Gò Quao, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

2. Bị đơn: Ông Kiều Công O – sinh năm 1986, vắng mặt.

Bà Trần Thị Đ – sinh năm 1986, vắng mặt.

Nơi cư trú: ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện được Tòa án thụ lý, nguyên đơn Ngân hàng TMCP S trình bày nội dung khởi kiện với các yêu cầu như sau:

 - Ngân hàng TMCP S – Chi nhánh Nguyễn Trung Trực (nay là chi nhánh Gò Quao) có cho vợ chồng ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ vay số tiền 180.000.000 đồng, theo hợp đồng tín dụng số LD 1812700562, ký ngày 07/5/2018, giải ngân theo giấy nhận nợ ngày 08/5/2018, mục đích vay tiêu dùng (chi tiêu và mua sắm vật dụng trong gia đình). Thời hạn vay là 12 tháng, hình thức trả nợ là trả lãi 03 tháng 01 lần và vốn gốc trả cuối kỳ; lãi suất thỏa thuận như sau: Lãi trong 03 tháng đầu là 11%/năm, lãi được điều chỉnh 03 tháng/lần, lãi quá hạn bằng 150% lãi trong hạn. Sau khi ký hợp đồng tín dụng ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ đã nhận đủ số tiền vay 180.000.000 đồng theo giấy nhận nợ số LD 1812700562, ngày 08/5/2018. Khi vay tiền ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ có ký hợp đồng thế chấp tài sản gồm: Quyền sử dụng đất có diện tích 1.983,5m2 thuộc thửa số 01, tờ bản đồ số 153-2016, đất tọa lạc tại ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang, toàn bộ diện tích đất trên được Ủy ban nhân dân huyện Gò Quao cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC 405800 cho ông Kiều Công Mười đứng tên vào ngày 14/8/2017 diện tích trên được điều chỉnh biến động tặng cho ông Kiều Công O vào ngày 23/11/2017. Trong quá trình thực hiện hợp đồng ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không trả nợ đúng cam kết nên ngày 07/5/2020 Ngân hàng khởi kiện ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ, tuy nhiên ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ đã bỏ địa phương đi làm ăn xa và không trở về địa phương, tính đến ngày 09/5/2019 số nợ vay của ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ đã quá hạn, hiện tại dư nợ gốc là 180.000.000 đồng và lãi phát sinh tính đến ngày 22/9/2020 là 48.110.401 đồng (trong đó lãi trong hạn là 5.003.507 đồng và lãi quá hạn là 42.417.370 đồng, phạt lãi trong hạn bằng 689.524 đồng). Nay Ngân hàng TMCP S yêu cầu Tòa án buộc ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải trả hết số tiền nợ gốc là 180.000.000 đồng và lãi suất phát sinh tính đến ngày xét xử theo hợp đồng đã thỏa thuận là 48.110.401 đồng, tổng cộng bằng 228.110.401 đồng. Đồng thời Ngân hàng TMCP S yêu cầu ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải chịu lãi suất quá hạn theo thỏa thuận của hợp đồng tín dụng và giấy nhận nợ đã ký cho đến khi tất toán khoản vay. Trường hợp ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không trả đủ số nợ vay và lãi phát sinh cho Ngân hàng TMCP S thì Ngân hàng TMCP S yêu cầu phát mãi tài sản thế chấp nêu trên để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật.

Bị đơn ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không có mặt tại phiên tòa. Trong quá trình tiến hành tố tụng giải quyết vụ kiện, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến nay ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không có mặt ở địa phương được chính quyền địa phương xác nhận ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ bỏ địa phương đi đâu không rõ địa chỉ, Tòa án đã tiến hành thủ tục niêm yết và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo qui định tại Điều 179, 180 Bộ luật tố tụng dân sự nhưng ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ vẫn không không có mặt nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ trong vụ kiện.

- Tại phiên tòa đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP S có ý kiến xin giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

- Phát biểu của kiểm sát viên - đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang tại phiên tòa:

 Về việc tuân thủ theo pháp luật về tố tụng: Tòa án thụ lý, giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền, vụ kiện được giải quyết đúng thời hạn quy định. Thẩm phán xác định đúng quan hệ pháp luật tranh chấp, người tham gia tố tụng; Việc thu thập tài liệu, chứng cứ, cấp tống đạt cho người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát đúng quy định. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử, Thư ký và đương sự chấp hành đúng và đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đối với bị đơn vắng mặt tại phiên tòa là không tuân thủ pháp luật nên Hội đồng xét xử giải quyết vụ kiện vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Qua nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự tại phiên tòa, đối chiếu với các quy định của pháp luật, kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử buộc bị đơn ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải trả cho Ngân hàng TMCP S số tiền hiện còn nợ và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho đến khi trả hết khoản nợ vay cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa. Căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ và toàn diện các chứng cứ, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Tranh chấp giữa Ngân hàng TMCP S với ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ là tranh chấp về dân sự được quy định tại Điều 26, 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án.

[2] Ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ là bị đơn vắng mặt trong quá trình giải quyết vụ kiện, tuy nhiên khi ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ thực hiện giao dịch với ngân hàng ông bà có địa chỉ rõ ràng, đó cũng là nơi ông bà cư trú, hiện nay ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ vẫn còn hộ khẩu thường trú ở địa chỉ trên nên theo quy định tại Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao và điểm e khoản 1 Điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án thụ lý giải quyết vụ kiện là đúng pháp luật. Tòa án đã thực hiện các thủ tục niêm yết công khai và thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng theo quy định tại Điều 179 và Điều 180 Bộ luật tố tụng Dân sự nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ theo quy định tại Điều 227 Bộ luật tố tụng Dân sự.

[3] Về nội dung: Yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP S là “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với mục đích vay tài sản được quy định tại Điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự. Qua kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi đối chiếu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án cho thấy giao dịch giữa các đương sự là thỏa thuận vay tài sản sản. Do vậy, khi các bên xảy ra tranh chấp thì căn cứ vào các quy định về hợp đồng vay tài sản để giải quyết là phù hợp pháp luật.

[4] Ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ là vợ chồng có cùng hộ khẩu, hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng TMCP S với ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ có thế chấp tài sản do ông Kiều Công O đứng tên, ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ cùng ký hợp đồng tín dụng, ký giấy nhận nợ và ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, mục đích vay vốn là để tiêu dùng mua sắm vật dụng trong gia đình nên khi Ngân hàng khởi kiện vợ chồng ông bà căn cứ Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 buộc ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ cùng phải có nghĩa vụ trả nợ chung.

[5] Tại hợp đồng tín dụng số LD 1812700562, được ký kết ngày 07/5/2018 giữa các bên có quy định về lãi suất, thời hạn vay, phương thức thanh toán nợ gốc và lãi. Những quy định trong hợp đồng không trái với quy định tại khoản 2 Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi bổ dung năm 2017; Điều 1 Thông tư số 12/2010/TT-NHNN ngày 14/4/2010 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn các tổ chức tín dụng cho vay bằng đồng Việt Nam đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện hợp đồng ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không thực hiện đúng cam kết, từ ngày 09/5/2019 hợp đồng đã quá hạn cho đến nay bên vay ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ đã vi phạm về thời hạn trả nợ nên căn cứ vào Điều 466 Bộ luật dân sự buộc ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải trả khoản nợ vay và lãi phát sinh cho ngân hàng là phù hợp. Đối với hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 11815619.2.1, được ký kết ngày 07/5/2018 giữa Ngân hàng TMCP S với ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ có nêu rõ các điều khoản thi hành và được công chứng chứng thực đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật, tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số: CC405800 được điều chỉnh biến động tặng cho ông Kiều Công O đứng tên vào ngày 23/11/2017 có diện tích 1.983,5m2 thuộc thửa số 01, tờ bản đồ số 153-2016, đất tọa lạc tại ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang. Vì vậy, Ngân hàng TMCP S yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo việc thu hồi nợ Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 7 Điều 323 Bộ luật dân sự và Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi bổ dung năm 2017 chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng.

[6] Đối với yêu cầu của Ngân hàng về phạt vi phạm trên số tiền lãi trong hạn phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 8 Nghị quyết 01/2029/NQ-HĐTP, ngày 11/01/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về lãi, lãi suất, phạt vi phạm nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng.

Đối với yêu cầu của Ngân hàng về việc buộc ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải tiếp tục chịu lãi theo hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi tất toán khoản vay là phù hợp với nội dung Án lệ số 08/2016AL ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Tòa án nhân dân tối cao nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này.

[7] Tại phiên tòa sau khi nghe lời trình bày của người đại diện theo ủy quyền của Ngân hàng TMCP S và đại diện Viện kiểm sát có quan điểm chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải trả số tiền nợ gốc và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng, trường hợp ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì đề nghị xử lý tài sản thế chấp để đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của Ngân hàng, xét đề nghị của kiểm sát viên tại phiên tòa là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Về án phí DSST có giá ngạch: Áp dụng Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự, Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí. Ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải nộp 11.406.000 đồng (228.110.401 đồng x 5%).

Ngân hàng TMCP S không phải chịu án phí vì yêu cầu của ngân hàng được chấp nhận. Ngân hàng TMCP S được nhận lại 5.216.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008876 ngày 07/5/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng Điều 26, 35, 39, 147, 179, 180, 227 và 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015:

- Áp dụng Điều 323, 325, 463, 466, 468 Bộ luật Dân sự:

- Áp dụng Án lệ số 08/2016/AL về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao:

- Áp dụng Điều 91 và 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 được sửa đổi bổ dung năm 2017:

- Áp dụng khoản 2 Điều 8 Nghị Quyết 01/2019/NQ-HĐTP, ngày 11 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao về lãi, lãi suất, phạt vi phạm:

- Áp dụng Điều 5 và Điều 6 Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP ngày 05/5/2017 của Hội đồng Thẩm phán Tóa án nhân dân Tối cao về hướng dẫn một số quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 192 BLTTDS:

- Áp dụng Điều 37 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014:

- Áp dụng Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí.

1. Tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Xử: Buộc ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng TMCP S 228.110.401 (hai trăm hai mươi tám triệu một trăm mười nghìn bốn trăm lẻ một) đồng, gồm có số tiền nợ gốc là 180.000.000 (một trăm tám mươi triệu) đồng và lãi suất phát sinh tính đến ngày xét xử theo thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng là 48.110.401 (bốn mươi tám triệu một trăm mười nghìn bốn trăm lẻ một) đồng.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Trường hợp ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ không thực hiện nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng TMCP S thì Ngân hàng TMCP S có quyền yêu cầu Chi cục thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang xử lý tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CC405800 được điều chỉnh biến động tặng cho ông Kiều Công O đứng tên vào ngày 23/11/2017, có diện tích 1.983,5m2 thuộc thửa số 01, tờ bản đồ số 153-2016, đất tọa lạc tại ấp Thới Trung, xã Thới Quản, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang để thu hồi toàn bộ số nợ trên.

Khi ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ trả hết số nợ đã vay và lãi phát sinh theo hợp đồng tín dụng cho Ngân hàng TMCP S thì Ngân hàng TMCP S có nghĩa vụ trả lại giấy chứng nhận QSD đất số CC405800 được điều chỉnh biến động tặng cho ông Kiều Công O đứng tên vào ngày 23/11/2017 cho vợ chồng ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch 5%: Ông Kiều Công O và bà Trần Thị Đ phải nộp 11.406.000 đồng.

Ngân hàng TMCP S được nhận lại 5.216.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0008876 ngày 07/6/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang.

3. Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa tuyên án.

Đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

“Quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 9 Luật Thi hành án dân sự và Điều 7, Điều 7a, Điều 7b Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

226
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2020/DS-ST ngày 22/09/2020 về tranh chấp hợp đồng tín dụng

Số hiệu:52/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gò Quao - Kiên Giang
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 22/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;