TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN LẠC, TỈNH VĨNH PHÚC
BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 30/10/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC
Ngày 30 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 46/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 49/2019/QĐXXST-HS ngày 18 tháng 10 năm 2019, đối với bị cáo:
Nguyễn Thị H, sinh ngày 03/01/1979, tại xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn L 1, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hoá: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Nguyễn Thị Đ (đã chết); chồng: Trần Văn G và 04 con, lớn sinh năm 2003, nhỏ sinh năm 2015; tiền án, tiền sự: Không;
Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 13 tháng 5 năm 2019 đến ngày 16 tháng 5 năm 2019, được thay thế biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo tại ngoại (có mặt).
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
1. Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1998 (vắng mặt).
2. Anh Trần Văn S, sinh năm 1996 (vắng mặt).
3. Anh Trần Quang H1, sinh năm 2000 (vắng mặt).
Đều cư trú: Thôn L 3, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc
4. Ông Trần Văn G, sinh năm 1974;
Nơi cư trú: Thôn L 1, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cuối tháng 4 năm 2019, Nguyễn Thị H mua 01 máy chơi game bắn cá qua mạng Internet với giá 25.000.000đồng rồi lắp đặt tại quán bán hàng tạp hóa của gia đình ở thôn L 3, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, mục đích để kinh doanh thu lời bất chính. H lên mạng tìm hiểu nguyên lý hoạt động, cách thức chơi, tỷ lệ đổi thưởng rồi tự nạp điểm vào tài khoản của máy, chơi thử nghiệm đồng thời hướng dẫn cho chồng là Trần Văn G nắm được. Sau khi thành thạo và thấy máy hoạt động bình thường, ngày 13/5/2019, H bắt đầu khai trương bán điểm cho khách. Khoảng 12 giờ cùng ngày, khi vợ chồng H đang ở quán thì Nguyễn Văn T, sinh năm 1998 ở thôn L 3, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đến hỏi mua điểm để chơi game bằng máy chơi game bắn cá, H đồng ý. Tuy nhiên, do đang bận việc nên H bảo G ra thu tiền và nạp điểm vào tài khoản của máy cho T chơi. G sử dụng một chiếc khóa từ (dạng chíp điện tử kèm theo máy) thao tác nạp điểm vào tài khoản cho T 3 lần với tổng số tiền 200.000đồng (trong đó lần 01, lần 02 mỗi lần nạp 50.000đồng; lần 03 nạp 100.000đồng) với tỷ lệ 10.000đồng được 1000điểm. Một lúc sau, T bị thua hết điểm trong tài khoản nhưng vẫn ở lại quán thì Trần Văn S, sinh năm 1996 trú tại thôn L 3, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đến hỏi mua điểm để chơi game bằng máy chơi game bắn cá. G nhận 200.000đồng rồi thao tác tích điểm vào tài khoản trong máy cho S (trong đó lần 01, lần 02 mỗi lần nạp 50.000đồng, lần 03 nạp 100.000đồng). Cùng lúc này do có việc phải ra ngoài nên G đưa lại cho H 400.000đồng có được từ việc bán điểm cho T và S cùng chiếc khóa từ để H quản lý, tự bán điểm khi có khách đến chơi. Một lúc sau, có hai N thanh niên tự khai nhận là Dương Văn N, Nguyễn Văn H2 đều sinh năm 1999 cùng trú tại xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đến hỏi mua điểm để chơi game bằng máy chơi game bắn cá. H đồng ý bán và thao tác nạp điểm cho N 08 lần với tổng số tiền 3.700.000đồng (trong đó lần 01 nạp 100.000đồng, lần 02 nạp 600.000đồng, 06 lần còn lại mỗi lần nạp 500.000đồng); cho H2 07 lần với tổng số tiền 3.000.000đồng (trong đó lần 01 nạp 100.000đồng, lần 2 nạp 200.000đồng, lần 03 nạp 400.000đồng, lần 04 nạp 600.000đồng, lần 05 nạp 300.000đồng, lần 06 nạp 400.000đồng, lần 07 nạp 1.000.000đồng). Khoảng 14 giờ cùng ngày, G quay về quán thấy N, H2 và S vẫn đang chơi game đồng thời có Trần Quang H1, sinh năm 2000 ở thôn L 3, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đến hỏi mua điểm để chơi game bằng máy chơi game bắn cá, H đồng ý nạp cho H1 6000điểm tương đương số tiền 60.000đồng. Đến 14 giờ 35 phút cùng ngày, Công an huyện Yên Lạc phối hợp cùng Công an xã V phát hiện bắt quả tang các đối tượng đang có hành vi đánh bạc bằng hình thức bán điểm chơi game bắn cá tại quán tạp hóa của gia đình Nguyễn Thị H. Qua kiểm tra tại thời điểm phát hiện bắt quả tang, tài khoản chơi game của Dương Văn N còn 86.000điểm, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn Văn T, Trần Quang H1 và Trần Văn S đều đã bị thua hết. Cơ quan Công an đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và thu giữ vật chứng theo quy định.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, Nguyễn Thị H khai nhận đã cùng với Nguyễn Văn T, Trần Văn S, Nguyễn Văn Huy, Dương Văn N và Trần Quang H1 đánh bạc bằng hình thức bán điểm chơi game bằng máy chơi game bắn cá để thu lợi. Về hình thức bán điểm để chơi game bằng máy chơi game bắn cá và tỷ lệ ăn thua H thống nhất với người mua như sau:
Người chơi trực tiếp tính điểm thắng thua với máy, độc lập và không liên quan với nhau. Khi bật máy các con vật di chuyển liên tục trên màn hình, người chơi sử dụng nút bấm để cài đặt mức đạn từ 10 đến 1000điểm/1 lần bắn. Sau đó, sử dụng cần gạt và nút bấm điều khiển súng điện tử bắn các con vật đó. Nếu bắn trúng và làm biến mất (bắn chết) con vật đang di chuyển thì được cộng vào tài khoản số điểm bằng với số điểm đã cài đặt sẵn. Nếu bắn trượt (không chết) con vật đang di chuyển thì bị trừ số điểm tương ứng với mức đạn đã cài đặt trong lần bắn đó. Khi dừng chơi, H sẽ căn cứ vào số điểm hiện có trong tài khoản để thanh toán tiền cho khách theo tỷ lệ như lúc bán điểm ban đầu. Nếu khách bị thua hết điểm trong tài khoản sẽ không được thanh toán gì và H sẽ được hưởng toàn bộ số tiền khách đã mua điểm. H bán mức thấp nhất 10.000đồng, tương ứng với 1.000điểm, mức tiền mua điểm không giới hạn tùy thuộc vào người mua điểm.
Ngoài lần bị bắt quả tang như trên, H và G chưa bán điểm cho người nào khác.
Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trần Văn G khai nhận: G không biết việc H lên mạng đặt mua máy chơi game bắn cá, đến khi mang máy về quán lắp đặt thì G mới biết nên không ngăn cản được. Khi đưa máy vào hoạt động kinh doanh kiếm tiền, vợ chồng G đã thống nhất để H quản lý toàn bộ, G không tham gia. Khi được H nhờ giúp, G chỉ bán cho S và T với tổng số tiền bằng 400.000đồng rồi đi ra ngoài có việc. Thời điểm Dương Văn N và Nguyễn Văn H2 đến mua điểm của H, G không có mặt tại đó, không tham gia giúp sức hay liên quan gì. Lúc G quay lại quán, H cũng không thông báo nên G không biết H1 và các đối tượng này đã mua điểm chơi game với số tiền bằng bao nhiêu. Việc G đưa cho H số tiền 400.000đồng cùng khóa điểm trước khi ra khỏi quán là do có sự thống nhất từ trước giữa hai vợ chồng. G cũng nhận thức được nếu đánh bạc với số tiền từ 5.000.000đồng trở lên sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự, vì vậy nếu biết được H bán điểm cho khách với số tiền nhiều như vậy G sẽ can ngăn. Thực tế ngay ngày đầu tiên đưa máy vào hoạt động và thu được của khách 7.160.000đồng thì H bị phát hiện, bắt giữ, G chưa được hưởng lợi gì từ số tiền này.
Tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Văn T, Trần Văn S, Trần Quang H1, Dương Văn Nam, Nguyễn Văn H2 khai nhận: Ngày 13/5/2019, Nguyễn Văn T đã dùng số tiền 200.000đồng, Trần Văn S đã dùng số tiền 200.000đồng, Dương Văn N đã dùng số tiền 3.700.000đồng, Nguyễn Văn H2 đã dùng số tiền 3.000.000đồng, Trần Quang H1 đã dùng số tiền 60.000đồng để mua điểm chơi game bằng máy chơi game bắn cá với Nguyễn Thị H thì bị bắt quả tang.
Tại Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 24/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố Nguyễn Thị H về tội “Đánh bạc” theo khoản 1 Điều 321 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội danh, điều luật áp dụng như nội dung Cáo trạng. Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Đánh bạc”. Áp dụng khoản 1 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 07 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách từ 01 năm 02 tháng đến 01 năm 06 tháng. Giao bị cáo cho UBND xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc là nơi bị cáo cư trú quản lý, giám sát, giáo dục trong thời gian chấp hành án; về hình phạt bổ sung: Áp dụng khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 phạt bị cáo Nguyễn Thị H từ 10.000.000đồng đến 12.000.000đồng để sung quỹ Nhà nước; về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 46, điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đề nghị tịch thu, sung quỹ Nhà nước 7.160.000đồng là tiền bị cáo có được từ việc thực hiện hành vi phạm tội; tịch thu bán sung quỹ Nhà nước 01 chiếc máy game bắn cá cùng khóa từ - là công cụ bị cáo dùng vào mục đích đánh bạc; tịch thu tiêu hủy 05 chiếc ghế xoay đã cũ – là công cụ dùng vào việc phạm tội và không còn giá trị sử dụng.
Bị cáo Nguyễn Thị H không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi tố tụng, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự tố tụng của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hay khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Tại phiên tòa và trong quá trình điều tra, Nguyễn Thị H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như Cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc đã truy tố. Xét lời nhận tội của bị cáo Nguyễn Thị H tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, phù hợp lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các vật chứng đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án.
Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 14 giờ 30 phút ngày 13/5/2019 tại quán bán hàng tạp hóa của gia đình Nguyễn Thị H thuộc thôn L 3, xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc, Nguyễn Thị H đã có hành vi đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức bán điểm để chơi game bằng máy chơi game bắn cá cho Nguyễn Văn T, Trần Văn S, Nguyễn Văn H2, Dương Văn N và Trần Quang H1 tổng cộng số tiền là 7.160.000đồng thì bị phát hiện và bắt quả tang.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Thị H đã phạm vào tội “Đánh bạc”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự quy định:
“1. Người nào đánh bạc trái phép dưới bất kỳ hình thức nào được thua bằng tiền hay hiện vật trị giá từ 5.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng… thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.
[3] Hành vi đánh bạc bằng hình thức bán bán điểm chơi game bằng máy chơi game bắn cá được thua bằng tiền của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến lĩnh vực trật tự công cộng, đồng thời làm ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an tại địa phương, làm quần chúng nhân dân lên án và bất bình. Bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi đánh bạc dưới hình thức bán điểm chơi game bằng máy chơi game bắn cá trái phép nhằm tạo ra thu nhập bất chính bị pháp luật cấm nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, thể hiện tính coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và đấu tranh phòng ngừa tội phạm nói chung.
[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào được quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo là người có nhân thân tốt và có nơi cư trú rõ ràng.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Vì vậy, căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa xử phạt bị cáo mức phạt tù cho hưởng án treo, có thời gian thử thách theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 65 của Bộ luật Hình sự cũng có đủ tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo tạo thành người công dân có ý thức chấp hành pháp luật và răn đe phòng ngừa tội phạm.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 3 Điều 321 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000đồng đến 50.000.000đồng. Tại phiên tòa bị cáo khai nhận, bị cáo có việc làm và thu nhập ổn định. Vì vậy, cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Đối với Trần Văn G chỉ đủ căn cứ buộc G phải chịu trách nhiệm về số tiền đánh bạc với hình thức bán điểm chơi game bằng máy chơi game bắn cá cho T và S là 400.000đồng. G chưa có tiền án, tiền sự liên quan đến hành vi đánh bạc và gá bạc, vì vậy lần vi phạm này chưa đến mức xử lý hình sự, ngày 06/9/2019, Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định xử phạt hành chính số tiền 1.500.000đồng là đúng quy định của pháp luật.
[7] Trong vụ án này còn có Dương Văn N đã đã có hành vi sử dụng số tiền 3.700.000đồng, Nguyễn Văn H2 đã có hành vi sử dụng số tiền 3.000.000đồng vào việc đánh bạc với Nguyễn Thị H vào ngày 13/5/2019, Cơ quan điều tra đã tiến hành xác minh tại xã Tam Hồng, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc nhưng không xác định được ai có nhân thân, lai lịch như N và H2 đã khai nhận tại Cơ quan điều tra. Vì vậy, Cơ quan điều tra tiếp tục xác minh làm rõ xử lý sau.
[8] Đối với những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án: Nguyễn Văn T đã có hành vi sử dụng số tiền 200.000đồng, Trần Văn S đã có hành vi sử dụng số tiền 200.000đồng, Trần Quang H1 đã có hành vi sử dụng số tiền 60.000đồng vào việc đánh bạc với Nguyễn Thị H. Tuy nhiên, số tiền T, S và H1 sử dụng để đánh bạc chưa đủ lượng cấu thành tội đánh bạc. Ngoài ra, T, S và H1 đều chưa có tiền án tiền sự về hành vi “đánh bạc”, “gá bạc” hay “tổ chức đánh bạc” nên lần vi phạm này chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Ngày 06/9/2019, Công an huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc ra quyết định xử phạt hành chính mỗi người 1.500.000đồng là đúng quy định của pháp luật.
[9] Về xử lý vật chứng: Đối với số tiền thu giữ khi bắt quả tang 7.160.000đồng là tiền bị cáo có được từ việc bán điểm chơi game bắn cá trái phép nên cần tịch thu, sung quỹ Nhà nước; đối với chiếc máy bắn cá cùng khóa điện tử, tuy không có hóa đơn, chứng từ hợp pháp cũng không được cấp có thẩm quyền cấp phép hoạt động nhưng là tài sản có giá trị nên cần phát mại sung quỹ Nhà nước; đối với 05 chiếc ghế xoay đã cũ bị cáo mua cho các đối tượng ngồi chơi game do không còn giá trị sử dụng nên tịch thu, tiêu hủy.
[10] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị H phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
[11] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị H phạm tội “Đánh bạc”.
2. Về hình phạt:
Căn cứ khoản 1, khoản 3 Điều 321; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015 Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị H 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 01 (một) năm 06 (sáu) tháng. Thời hạn thử thách tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thị H cho Ủy ban nhân dân xã V, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Trong trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự hai lần trở lên thì thực hiện thao quy định tại khoản 5 Điều 65 Bộ luật Hình sự.
Hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Nguyễn Thị H số tiền 10.000.000đồng (mười triệu đồng) để sung quỹ Nhà nước. Kể từ ngày Bản án có hiệu lực pháp luật, nếu bị cáo không tự nguyện thi hành khoản tiền phạt thì hàng tháng còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền chưa thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Về vật chứng: Căn cứ Điều 46, Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
3.1. Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 7.160.000đồng.
3.2. Tịch thu phát mại sung quỹ Nhà nước chiếc máy bắn cá cùng khóa điện tử. dụng.
3.3. Tịch thu tiêu hủy 05 chiếc ghế xoay đã cũ do không còn giá trị sử (Đặc điểm vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 14/10/2019).
4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Thị H phải nộp 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí Hình sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331 Bộ luật Tố tụng hình sự; Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được Bản án hoặc Bản án được niêm yết.
Bản án 52/2019/HS-ST ngày 30/10/2019 về tội đánh bạc
Số hiệu: | 52/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 30/10/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về