Bản án 52/2019/HS-ST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 20/09/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 20 tháng 9 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2019/TLST-HS ngày 31 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1/Thạch Thị Thanh G; sinh năm: 1992 tại tỉnh Bạc Liêu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp S, xã H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; nơi ở: đường T, Phường D, Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Khơ Me; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Thạch S (chết) và bà: Thạch Thị C; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Tốt; bị bắt giữ ngày: 22/4/2019; bị tạm giữ ngày: 22/4/2019; bị tạm giam ngày: 24/4/2019.

2/Bùi Tây L; sinh năm: 1995 tại tỉnh Bạc Liêu; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp G, xã H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu; nơi ở: đường T, Phường D, Quận O, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Làm công; trình độ học vấn: / (không biết chữ); dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Triệu S và bà: Bùi Thanh T; tiền án: Không; tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 14/7/2017 bị Công an Phường 7, thành phố Bạc Liêu xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản”; bị bắt giữ ngày: 22/4/2019; bị tạm giữ ngày: 22/4/2019; bị tạm giam ngày: 24/4/2019.

(Các bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/Ông Nhâm Anh T – Sinh năm: 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: đường L, Phường D, Quận O, TP.HCM.

2/Ông Nguyễn Thế B – Sinh năm: 1955 (có mặt).

Địa chỉ: đường T, Phường D, Quận O, TP.HCM.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 02 giờ 30 ngày 22/4/2019, tại trước nhà số 345 đường T, Phường D, Quận O, Tổ tuần tra Công an Quận 10 phát hiện Thạch Thị Thanh G điều khiển xe môtô biển số 52U7-6465 chở Bùi Tây L có biểu hiện nghi vấn nên kiểm tra hành chính. Qua kiểm tra, Công an thu giữ của Thạch Thị Thanh G 01 gói nylon (bên trong chứa tinh thể không màu, G khai là ma túy do G và L mới mua để cùng sử dụng). Công an Phường 12, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra làm rõ.

Tại Kết luận giám định số 945/KLGĐ-H ngày 26/4/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an thành phố Hồ Chí Minh xác định:

- Tinh thể không màu trong 01 gói nylon được niêm phong bên ngoài có dấu vân tay, các chữ ký ghi tên Thạch Thị Thanh G, dấu vân tay ghi tên L (người chứng kiến), Nguyễn Quang M (Điều tra viên) và hình dấu Công an Phường 12, Quận 10 có khối lượng 0,1592g là ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra, G và L khai nhận như sau: Khoảng 01 giờ ngày 22/4/2019, Thạch Thị Thanh G rủ Bùi Tây L mua ma túy để sử dụng chung, tiền mua ma túy là của G, L đồng ý. L gọi điện thoại cho đối tượng tên L1 (không rõ lai lịch, địa chỉ) để mua ma túy nhưng không liên lạc được. L rủ G đến hẻm B đường S để mua ma túy. G điều khiển xe môtô biển số 52U7- 6465 chở L đến hẻm B đường S. Tại đây, cả hai gặp một đối tượng đàn ông chạy xe ôm. L hỏi mua ma túy và nói G đưa 300.000đ. Khoảng 5 phút sau, người đàn ông quay lại, giao ma túy cho L. L nhận ma túy và lên xe để G chở. Đi được một đoạn, G nói L đưa ma túy để G giữ. Khi cả hai đến trước nhà số 345 đường T, Phường 12, Quận 10 thì bị bắt như trên.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Thạch Thị Thanh G, Bùi Tây L về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Riêng đối tượng người đàn ông tên L1 (không rõ lai lịch, địa chỉ) bán ma túy cho L, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 tiếp tục truy xét, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Đối với chiếc xe biển số 52U7-6465 do ông Nhâm Anh T đứng tên chủ sở hữu. Tháng 10/2016, ông T bán chiếc xe cho ông Nguyễn Thế B. Lúc 00 giờ 30 ngày 22/4/2019, Thạch Thị Thanh G mượn xe của ông B đi công việc. Việc G sử dụng chiếc xe để mua ma túy, ông B không biết nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 trả xe cho ông B.

Riêng đối với 01 điện thoại di động hiệu Nokia thu của Bùi Tây L, là phương tiện liên quan đến hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Tại bản Cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 31 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Thạch Thị Thanh G, Bùi Tây L về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án; về phía người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vẫn giữ nguyên lời khai của mình.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo G là người dân tộc thiểu số) và nhân thân của từng bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017), xử phạt các bị cáo: Thạch Thị Thanh G, Bùi Tây L từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù, phạt bổ sung bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý các vật chứng theo đúng quy định của pháp luật.

- Ý kiến của các bị cáo: Không có ý kiến gì tranh luận.

- Ý kiền của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Không có ý kiến gì.

- Lời nói sau cùng của các bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà các bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, vật chứng thu giữ được, bản kết luận giám định về ma túy, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định các bị cáo Thạch Thị Thanh G, Bùi Tây L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”; nhưng bị cáo đã đi ngược lại mục tiêu chung trên, cụ thể: Bị cáo đã cất giữ trái phép: 0,1592g loại Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng, chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định số: 82/2013/NĐ-CP ngày 19/7/2013 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn, nên bị cáo bị xét xử theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; ngoài ra, bản thân bị cáo L có nhân thân không tốt, cụ thể: Ngày 14/7/2017 bị Công an Phường 7, thành phố Bạc Liêu xử phạt hành chính 1.500.000 đồng về hành vi “Trộm cắp tài sản” (đã xóa tiền sự). Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo G là người dân tộc thiểu số (Khơ Me); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) tương ứng, xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với từng bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo do mới bị kết án lần đầu.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác: Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 gói được niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra), là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

- Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia (Số Imei: 356012087171422), là phương tiện dùng vào việc phạm tội; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Thạch Thị Thanh G, Bùi Tây L phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Thạch Thị Thanh G;

Xử phạt bị cáo Thạch Thị Thanh G 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/4/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo G.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Bùi Tây L;

Xử phạt bị cáo Bùi Tây L 01 (một) năm 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 22/4/2019.

Miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo G.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy: 01 gói được niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra).

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Nokia (Số Imei: 356012087171422).

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 29/7/2019 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc:

- Bị cáo G chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng.

- Bị cáo L chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (Hai trăm ngàn) đồng. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thị hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo phần bản án liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày tuyên án; đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa thì tính từ ngày được giao hoặc ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

164
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 20/09/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;