TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Q, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 19/06/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 19 tháng 6 năm 2019, tại Trung tâm giáo dục lao động xã hội huyện Q, Tòa án nhân dân huyện Quế P, tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hình sự thụ lýsố 43/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 4 năm 2019, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 51/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:
Vi Văn Đ; Tên gọi khác: Không; sinh năm 1962, tại huyện Q, tỉnh Nghệ An. Nơi cư trú: Bản N, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Nguyên trồng trọt; trình độ văn hóa : Lớp 1/12; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vi Văn N (Đã chết); con bà Lô Thị K (Đã chết); có vợ: Lìm Thị D và 07 người con; tiền án: Có 02 tiền án; năm 2004 bị Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xử phạt 07 năm tù về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”; năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Q xử phạt 42 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 13/02/2019. Có mặt.
- Người bào chữa cho bị cáo Vi Văn Đ: Ông Nguyễn Thái Q, Trợ giúp viên trợ giúp pháp lý, chi nhánh trợ giúp pháp lý số 2 thuộc trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 12/02/2019 Vi Văn Đ đi lên bản P, xã T mua một gói Heroin và 3 viên Methamphetamine với một người không quen biết, để sử dụng. Mua được ma túy bị cáo đi về đến bản x, xã T, huyện Q thì bị bắt quả tang, thu của bị cáo 01 gói chất bột màu trắng, 03 viên nén màu hồng và 01 chiếc xe máy.
Tại cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q qua xác định trọng lượng gói chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn Đ có khối lượng 0,5 gam; 03 viên nén màu hồng có tổng khối lượng 0,3 gam.
Bản kết luận giám định số 361/KL- PC09(MT) ngày 16/02/2019 của phòng kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Nghệ An kết luận:
Số chất bột màu trắng thu giữ của Vi Văn Đ gửi tới giám định là Heroin và có khối lượng 0,5 gam (Không phẩy năm gam); mẫu viên nén màu hồng thu giữ của Vi Văn Đ gửi tới giám định là Methamphetamine, 3 viên nén màu hồng thu của Vi Văn Đ có tổng khối lượng 0,3 gam (Không phẩy ba gam).
Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Vi Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Cụ thể: Vào lúc 04 giờ, ngày 13/02/2019 tại bản X, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An, Vi Văn Đ đang có hành vi cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang, thu giữ 01 gói Heroin có khối lượng 0,5 gam và 03 viên Methamphetamine có khối lượng 0,3 gam. Mục đích bị cáo cất giấu ma túy là để sử dụng. Bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích.
Bản cáo trạng số 50/CT-VKS-QP ngày 20/4/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, tỉnh Nghệ An truy tố bị cáo Vi Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
Đối với người bán trái phép chất ma túy cho bị cáo, do không xác minh được họ tên và địa chỉ, nên không có cơ sở để điều tra xử lý.
Tại phiên tòa hôm nay, đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo như bản cáo trạng đã kết luận và đề nghị áp dụng điểm o khoản2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106; Điều 135; Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Vi Văn Đ từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù.
Đề nghị tịch thu tiêu hủy số ma túy còn lại; miễn hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Người bào chữa không tranh luận về tội danh và đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ và xử phạt bị cáo 05 năm tù.
Bị cáo không có ý kiến tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Q, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Q, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Hội đồng xét xử, kiểm sát viên thực hiện quyền công tố, thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Bị cáo, người bào chữa không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.
Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về nội dung vụ án: Mặc dù không được các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép, nhưng vào lúc 04 giờ, ngày 13/02/2019 tại bản X, xã T, huyện Q, tỉnh Nghệ An, bị cáo Vi Văn Đ đang cất giấu trái phép chất ma túy thì bị bắt quả tang. Thu của bị cáo 0,5 gam Heroin và 0,3 gam Methamphetamine. Bị cáo tàng trữ ma túy không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước; bị cáo có 02 tiền án chưa được xóa án tích, đây là trường hợp tái phạm nguy hiểm. Do đó bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm o khoản 2 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
[3] Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết nhân thân, tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo không những xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý chất gây nghiện của Nhà nước, mà còn làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe, nòi giống của con người, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Hành vi phạm tội của bị cáo là rất nghiêm trọng. Vì vậy cần xét xử nghiêm và cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt có ích cho xã hội, răn đe và phòng ngừa tội phạm. Tuy nhiên sau khi phạm tội bị cáo khai báo thành khẩn đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
[4] Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Q đề nghị xử phạt bị cáo Vi Văn Đ từ 05 năm đến 05 năm 06 tháng tù; người bào chữa đề nghị xử phạt bị cáo 05 năm tù. Đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và người bào chữa là hợp lý.
[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự quy định “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản”, do đó bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy, bị cáo không có việc làm ổn định, thu nhập thấp, điều kiện kinh tế khó khăn, không có tài sản đáng giá. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.
[6] Về vật chứng: Đối với 0,5 gam Heroin. Cơ quan điều tra đã lấy đi giám định chất ma 0,15 gam, còn lại 0,35 gam; đối với 0,3 gam Methamphetamine cơ quan điều tra lấy đi giám định chất ma túy 0,1 gam, còn lại 0,2 gam; đây là vật nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu tiêu hủy. Đối với chiếc xe máy cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[7] Về án phí: Bị cáo bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố: Vi Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Căn cứ vào điểm o khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.
Phạt Vi Văn Đ 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 13/02/2019.
Căn cứ vào điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu huỷ 0,35 (Không phẩy ba mươi lăm) gam Heroin và 0,2 (Không phẩy hai) gam Methamphetamine thu giữ của bị cáo Vi Văn Đ.
Chi tiết vật chứng được ghi cụ thể trong biên bản giao nhận ngày 22/4/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Q với Chi cục thi hành án dân sự huyện Q, tỉnh Nghệ An.
Căn cứ vào Điều 135 và khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự, Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo Vi Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo Vi Văn Đ có quyền kháng cáo bản án lên Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 52/2019/HS-ST ngày 19/06/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 52/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Quế Phong - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 19/06/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về