TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 05/09/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 05 tháng 9 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số 59/2019/TLST-HS ngày 09/8/2019 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2019/QĐXXST-HS ngày 20/8/2019 đối với bị cáo:
Đoàn Văn A, sinh ngày 24/2/1997 tại Bình Phước; Tên gọi khác: U, C; Nơi cư trú: tổ 11, ấp 4, xã M, huyện C, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Lái máy cày; Trình độ học vấn: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Đoàn Văn X, sinh năm 1967 và bà Nguyễn Thị Bích L, sinh năm 1969; Bị cáo có vợ tên Đinh Thị H, sinh năm 1993; Bị cáo có 01 người con sinh năm 2018; Tiền án,Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/4/2019 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
- Người làm chứng:
Anh Đặng Hữu N, sinh năm 1996 (vắng mặt).
Địa chỉ: khu phố 2, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước
Anh Lê Đức H, sinh năm 1993 (vắng mặt).
Địa chỉ: tổ 2, ấp B, xã T, huyện H, tỉnh Bình Phước
Anh Lê Minh T, sinh năm 1991 (vắng mặt).
Địa chỉ: tổ 11, khu phố 4, thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Ngày 24/4/2019 Đoàn Văn A có mua ma túy của một người tên S, thông qua giới thiệu của H là bạn của A với số tiền là 1.200.000đ (một triệu hai trăm ngàn đồng) tại khu vực đập B, thuộc thị trấn T, huyện H, tỉnh Bình Phước với mục đích là vừa để sử dụng vừa bán lại cho các đối tượng nghiện ma túy để kiếm tiền lời. Sau khi mua được ma túy, bị cáo đã lấy một ít sử dụng cùng với Lê Minh T còn lại chia nhỏ ra để bán.
Khoảng 19 giờ ngày 25/4/2019 Lê Đức H gọi điện thoại cho A hỏi mua 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng) ma túy thì A đồng ý bán cho H, sau đó H nhờ Đặng Hữu N đến lấy ma túy giùm cho H. N gọi điện thoại cho A và được A hẹn đến nhà trọ của Lê Minh T giao ma túy. Khi A cầm gói ma túy ra ngoài đường, phía trước nhà trọ nơi T thuê để chờ N đến thì bị lực lượng Công an huyện Hn tiến hành kiểm tra và phát hiện 01 gói ma túy A đang cầm chuẩn bị giao cho N. Lực lượng Công an đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.
Sau đó tiến hành khám xét nhà trọ do Lê Minh T thuê thuộc tổ 11, ấp 4, thị trấn T, huyện H phát hiện 01 gói ma túy đá cất giấu bên trong chiếc khăn tắm và 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá (trong mỏ thủy tinh có chứa tinh thể màu trắng) nghi ma túy.
Điều tra viên của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện H đã tiến hành niêm phong tang vật gồm 2 gói nylon và ống thủy tinh bên trong có chứa tinh thể màu trắng có sự chứng kiến của bị cáo, Công an thị trấn T và người chứng kiến đúng theo quy định và gửi đi giám định.
Theo kết luận giám định số 107/2019/GĐ-MT ngày 02/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:
Tinh thể màu trắng có trong gói nylon (ký kiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,3151gam, loại Methamphetamine.
Tinh thể màu trắng có trong ống thủy tinh (ký kiệu M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,1302 gam, loại Methamphetamine.
Tinh thể màu trắng có trong gói nylon (ký kiệu M3) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 1,2608gam, loại Methamphetamine.
Tại bản cáo trạng số 54/CT-VKSHQ ngày 07 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện H đã truy tố bị cáo Đoàn Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Đoàn Văn A phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Đoàn Văn A mức án từ 32 tháng đến 36 tháng tù.
Bị cáo không tranh luận, không kêu oan.
Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện H và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra và truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng.
[2] Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của bị cáo. Lời khai của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ, có đầy đủ cơ sơ khách quan để xác định:
Do bản thân bị cáo đã sử dụng ma túy từ tháng 3/2019, trong quá trình sử dụng ma túy, bị cáo có quen biết một số đối tượng nghiện và để có tiền mua ma túy bị cáo nảy sinh ý định mua ma túy vừa để sử dụng vừa bán lại cho ai có nhu cầu.
Khoảng 20 giờ ngày 25/4/2019, Lê Đức Hải gọi điện thoại cho bị cáo hỏi mua 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng) ma túy thì bị cáo đồng ý và hẹn H đến nhà Lê Minh Tđể nhận ma túy. Sau đó, H nhờ Đặng Hữu N đến lấy giùm ma túy. Khi bị cáo cầm gói ma túy ra ngoài đường, phía trước nhà trọ nơi Tân thuê chờ N đến để giao thì bị lực lượng Công an huyện H tiến hành kiểm tra, phát hiện. Sau đó, lực lượng công an tiến hành khám xét và thu giữ tinh thể trắng do bị cáo A cất giữ và gửi đi giám định.
Theo kết luận giám định số 107/2019/GĐ-MT ngày 02/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Phước kết luận:
Tinh thể màu trắng có trong gói nylon (ký kiệu M1) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,3151gam, loại Methamphetamine.
Tinh thể màu trắng có trong ống thủy tinh (ký kiệu M2) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 0,1302 gam, loại Methamphetamine.
Tinh thể màu trắng có trong gói nylon (ký kiệu M3) được niêm phong gửi giám định là ma túy có khối lượng là 1,2608gam, loại Methamphetamine.
Trên cơ sở đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo Đoàn Văn A về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự là hoàn toàn có căn cứ.
Đối với người tên là Sen Cơ quan điều tra chưa xác minh được nhân thân lai lịch nên chưa có căn cứ xử lý.
Đối với Lê Minh T, Lê Đức H, Đặng Hữu N có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, Công an huyện H đã xử phạt vi phạm hành chính theo quy định pháp luật.
[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến các quy định của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương, là mầm mống của các tệ nạn xã hội, sẽ dẫn đến có nhiều người bị lôi kéo vào con đường sử dụng hoặc buôn bán ma túy, tạo ra gánh nặng cho gia đình và xã hội. Bị cáo biết rõ việc mua bán chất ma túy bị pháp luật cấm, người vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật nhưng vì muốn được hưởng lợi từ việc bán ma túy mang lại nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện nên cần có một hình phạt tương xứng với tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo.
Xét về nhân thân: Bị cáo là người có nhân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; bị cáo phạm tội lần đầu; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Ngoài ra, bản thân bị cáo còn là lao động chính trong gia đình, có con còn nhỏ nên Hội đồng xét xử xem xét cân nhắc trong việc áp dụng hình phạt đối với bị cáo. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Hiện nay, tình trạng thanh thiếu niên sử dụng ma túy ngày càng nhiều, để đẩy lùi, ngăn chặn tệ nạn ma túy trong xã hội, góp phần ổn định an ninh chính trị tại địa phương cần thiết áp dụng hình phạt nghiêm là cách ly bị cáo ra khỏi cộng đồng một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung. Xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà áp dụng hình phạt tù có thời hạn là phù hợp với quy định của pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Vật chứng vụ án:
Số ma túy sau khi đem đi giám định còn lại là: (M1) = 0,2408gam, (M2) =0,0773 gam, (M3)= 0,8985 gam là chất cấm lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy.
Số tiền 600.000đ (sáu trăm ngàn đồng), 01 điện thoại di động hiệu Oppo, 01 điện thoại di động Nokia 1200 liên quan trực tiếp đến việc mua bán ma túy cần tịch thu, sung công quỹ Nhà nước.
Ngoài ra còn có một số vật dụng khác như hộp quẹt, kéo, dụng cụ sử dụng ma túy, khăn…như chi tiết biên bản bàn giao vật chứng không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.
[4] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo luật định.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
[1] Về tội danh: Tuyên bố: Bị cáo Đoàn Văn Aphạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
[2] Về điều luật áp dụng và mức hình phạt:
Áp dụng khoản 1 Điều 251, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 Xử phạt bị cáo Đoàn Văn A 02 (hai) năm 08 (tám) tháng tù. Thời gian tù tính từ ngày 25/4/2019.
Tiếp tục tạm giam bị cáo Đoàn Văn A trong thời hạn 45 (bốn mươi lăm) ngày tính từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
[3] Về vật chứng vụ án:
Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự, Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:
Tịch thu, tiêu hủy số ma túy sau khi đem đi giám định còn lại là: (M1) = 0,2408gam, (M2) =0,0773gam, (M3)= 0,8985gam được niêm phong trong 03 bì thư.
Tịch thu, sung công quỹ Nhà nước số tiền 600.000đ (sám trăm nghìn đồng). Tịch thu, hóa giá, sung qũy Nhà nước 01 điện thoại Nokia 1200 màu trắng đen kèm sim, 01 điện thoại di động hiệu Oppo A3S màu đen kèm sim.
Tịch thu, tiêu hủy 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế.
Tịch thu, tiêu hủy 01 quẹt ga màu xanh; 01 cái kéo bằng kim loại dài 9cm; 01 đoạn ống hút thủy tinh trong suốt, 01 đầu gắn ống hút nhựa màu xanh; 01 mảnh giấy bạc có kích thước 17,5cmx8cm; 01 khăn tắm màu vàng, viền xanh (Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản số 0005640 ngày 23/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hớn Quản, tỉnh Bình Phước).
[4] Về án phí:
Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban thường vụ Quốc Hội: Bị cáo Đoàn Văn A phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[5] Về quyền kháng cáo:
Bị cáo có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.
Bản án 52/2019/HS-ST ngày 05/09/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 52/2019/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Hớn Quản - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về