Bản án 52/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MỘC CHÂU, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 52/2019/HS-ST NGÀY 02/04/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 4 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Mộc Châu, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 50/2019/HSST ngày 20/3/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2019/QĐXXST-HS ngày 22/3/2019 đối với các bị cáo:

1. Thào A S, sinh năm: 1977, tại huyện V, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản S, xã C, huyện V, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Mông; giơi tinh : Nam; tôn giáo: Không; quôc tich : Viêt Nam; con ông Thào A P và bà Sồng Thị M (đều đã chết); bị cáo có vợ là Giàng Thị S và 05 con; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/10/2018 đến nay. Có mặt.

2. Hà Văn T, sinh năm: 1993, tại huyện M, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Tiểu khu x, xã C, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Trồng trọt; trình độ văn hóa (học vấn): không biết chữ; dân tộc: Thái; giơi tinh : Nam; tôn giáo : Không; quôc tich : Viêt Nam; con ông Hà Thông V (đã chết) và bà Hà Thị K; bị cáo có vợ là Hà Thị D và có 02 con; tiền án , tiền sự : Không; bị bắt , tạm giữ , tạm giam từ ngày 17/12/2018 đến nay. Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Giàng Thị S, sinh năm 1980, trú tại: Bản S, xã C, huyện V, tỉnh Sơn La. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: S ngày 25/10/2018, Thào A S, Hà Văn T, Lò Văn T2, Lường Văn S làm thuê cho gia đình anh Vì Văn T3. Khoảng hơn 11 giờ cùng ngày tất cả về lán của ông Cà Văn T gần vị trí làm thuê để nghỉ trưa ăn cơm. Khi ăn cơm có S, T1, T, T3, Sơn, Tiên. Ăn cơm xong, T3, Sơn, và Tiên đi ngủ còn S, T1, T ngồi nói chuyện và cả ba người bàn bạc việc mua Methamphetamine về cùng nhau sử dụng. Do không có tiền nên T1 xin ứng 300.000 đồng và T xin ứng 100.000 đồng của anh T3. Sau khi ứng được tiền T đưa cho S 100.000 đồng, T1 đưa cho S 200.000 đồng, sau đó S điều khiển xe máy nhãn hiệu HONDA – BKS: 26B1 – 948.84 đi đến khu vực Khò Hồng, xã Chiềng Xuân, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La thì gặp một người đàn bà dân tộc Mông không quen biết, S đã hỏi và mua được 07 viên Methamphetamine với giá 300.000 đồng. Sau khi mua được ma túy S cất giấu vào túi quần bên phải đang mặc trên người rồi điều khiển xe máy quay về chỗ T1 và T. Đến 14 giờ 30 phút cùng ngày khi S đang trên đường về đến khu vực Tiểu khu 9, xã Chiềng Sơn thì bị Tổ công tác Công an huyện Mộc Châu kiểm tra phát hiện bắt quả tang thu giữ 01 gói bằng giấy bạc bên trong đựng 07 viên Methamphetamine.Tạm giữ của Thào A S: 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26B1-948.84; 01 đăng ký xe máy và 01 chứng minh nhân dân mang tên Thào A S.

Ngày 25/10/2018, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu và phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành mở niêm phong, cân xác định khối lượng 07 viên nén nghi là Methamphetamine của Thào A S có khối lượng 0,7 gam. Lấy 05 viên có khối lượng 0,5 gam làm mẫu giám định, mẫu ký hiệu “S”

Tại kết luận giám định số: 1122 ngày 29/10/2018 của phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận: Mẫu gửi giám định ký hiệu S là ma túy; loại chất Methamphetamine. Tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,5 gam, loại Methamphetamine; Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,7 gam, loại Methamphetamine.

Ngày 19/11/2018 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã ra quyết định khởi tố bị can Lò Văn T2 và Hà Văn T về tội tàng trữ trái phép chất ma túy quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Sau khi khởi tố Lò Văn T2 và Hà Văn T đã bỏ trốn. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã ra Quyết định truy nã và đến ngày 19/12/2018 thì bắt được Hà Văn T, còn Lò Văn T2 vẫn đang bỏ trốn.

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26B1- 948.84 tạm giữ của Thào A S, quá trình điều tra xác định chiếc xe là tài sản chung của bị can Thào A S và vợ là chị Giàng Thị S. Hiện đang tạm giữ chiếc xe chờ xử lý theo quy định của pháp luật.

Bản cáo trạng số 50/CT-VKSMC ngày 20/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu truy tố bị can Thào A S, Hà Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu giữ nguyên cáo trạng truy tố, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố các bị cáo Thào A S, Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và áp dụng các căn cứ pháp luật như sau:

1. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58; khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Thào A S từ 18 đến 21 tháng tù.

Phạt bổ sung đối với bị cáo từ 1.000.000 đồng đến 2.000.000 đồng.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Hà Văn T từ 18 đến 21 tháng tù.

Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra tạm giữ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,2 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tạm giữ của bị cáo Thào A S 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26B1- 948.84 và 01 đăng ký xe máy mang tên Thào A S để đảm bảo thi hành án về phần án phí.

Tuyên trả cho bị cáo Thào A S 01 chứng minh nhân dân của Thào A S.

Giao cho cơ quan cảnh sát điều tra tiếp tục tạm giữ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 02 viên Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

5. Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, các bị cáo nhất trí với cáo trạng và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát. Lời nói sau cùng: Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu, Điều tra viên, Viện Kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo không có ý kiến, khiếu nại về hành vi của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi và trách nhiệm hình sự của các bị cáo:

Tại phiên toà, các bị cáo giữ nguyên lời khai như đã khai tại Cơ quan điều tra, không thay đổi, bổ sung thêm nội dung gì. Các bị cáo hoàn toàn nhất trí với bản cáo trạng truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Mộc Châu. Xét lời khai của các bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nhau và phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với bị cáo Thào A S ngày 25/10/2018; phù hợp với vật chứng đã thu giữ; biên bản mở niêm phong xác định khối lượng, lấy mẫu giám định; kết luận giám định; lời khai của người chứng kiên và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Do vậy có đủ căn cứ khẳng định: Ngày 25/10/2018, các bị cáo Thào A S, Hà Văn T, đã thực hiện hành vi cất giấu trái phép 0,7 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân. Hành vi của các bị cáo đu yêu tô câu thanh tội Tàng trư trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự. Khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự quy định phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Xét hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý chất ma tuý của Nhà nước, làm ảnh hưởng xấu đến T1 hình an ninh trật tự tại địa phương.

Xét về nhân thân của các bị cáo thấy rằng các bị cáo nhận thức hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật, nhận thức được tác hại của ma tuý đối với bản thân, gia đình và xã hội nhưng vẫn cố T1 thực hiện hành vi phạm tội. Do đó, hành vi phạm tội của các bị cáo cần phải bị xử lý nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo, cách ly các bị cáo ra ngoài đời sống xã hội một thời gian là cần T, có như vậy mới có tác dụng răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

 [3] Xét về tính chất và mức độ tham gia của các bị cáo trong đồng phạm:

Các bị cáo cùng nhau bàn bạc và góp tiền để bị cáo S đi mua ma túy do đó các bị cáo đều là đồng phạm trong vụ án. Xét cần áp dụng Điều 58 Bộ luật Hình sự, quyết định hình phạt phù hợp với tính chất và mức độ tham gia của các bị cáo trong đồng phạm.

 [4] Về T1 tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên được áp dụng T1 tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Riêng bị cáo Thào A S, trong quá trình điều tra đã tích cực, hợp tác với cơ quan Cảnh sát điều tra phát hiện tội phạm nên được hưởng thêm T1 tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Các bị cáo không có T1 tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

 [5] Về hình phạt bổ sung - phạt tiền: Quá trình điều tra , xác minh và xét hỏi tại phiên toà thấy bị cáo Hà Văn T là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng gì có giá trị. Do đó không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo. Đối với bị cáo Thào A S có tài sản chung với chị Giàng Thị S là 01 chiếc xe máy, xét điều kiện tài sản của Thào A S thấy cần áp dụng khoản 2, 3 Điều 35; khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự để quyết định mức phạt bổ sung phù hợp.

 [6] Đối với người phụ nữ dân tộc Mông đã bán ma túy cho bị cáo Thào A S vào ngày 25/10/2018 tại bản Khò Hồng, xã Chiềng Xuân, huyện Vân Hồ, tỉnh Sơn La. Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không có căn cứ để điều tra, xử lý.

Đối với Lò Văn T2, sau khi bị phát hiện đã bỏ trốn đến nay chưa bắt được, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Mộc Châu đã tách vụ án đối với Lò Văn T2 để xử lý sau là đúng quy định của pháp luật.

 [7] Về vật chứng của vụ án:

Đối với 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26B1- 948.84 và 01 đăng ký xe máy mang tên Thào A S. Quá trình điều tra xác định chiếc xe máy đó là tài sản chung của Thào A S và vợ là Giàng Thị S nên cần tạm giữ để đảm bảo việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung.

Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,2 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu. Trong vụ án này còn có đối tượng Lò Văn T2 liên quan trực tiếp đến vụ án nhưng hiện nay đang bỏ trốn, để phục công tác điều tra khi bắt được Lò Văn T2, cần tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra tạm giữ 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,2 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

Đối với 01 chứng minh nhân dân mang tên Thào A S. Xét là giấy tờ hợp pháp của bị cáo cần tuyên trả cho bị cáo.

 [8] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

 [9] Tiếp tục tam giam các bị cáo để thi hành án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Thào A S, Hà Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Căn cứ điểm c khoản 1, khoản 5 Điều 249; điểm s, t khoản 1 Điều 51; Điều 58, khoản 2, 3 Điều 35 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Thào A S 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 25/10/2018.

Phạt bổ sung đối với bị cáo 1.000.000 (một triệu) đồng.

2. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Hà Văn T 21 (hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo tính từ ngày 17/12/2018. Không áp dụng hình phạt bổ sung (phạt tiền) đối với bị cáo.

3. Căn cứ khoản 1, 2 Điều 47 Bộ luật Hình sự; khoản 1, 2, 3 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tiếp tục giao cho Cơ quan cảnh sát điều tra tạm giữ: 01 phong bì niêm phong bên trong đựng 0,2 gam Methamphetamine và vỏ gói niêm phong ban đầu.

Tạm giữ của bị cáo Thào A S và vợ là Giàng Thị S 01 chiếc xe máy nhãn hiệu HONDA, biển kiểm soát 26B1-948.84 và 01 đăng ký xe máy để đảm bảo việc thi hành án về phần án phí và hình phạt bổ sung; Tuyên trả cho bị cáo 01 chứng minh nhân dân mang tên Thào A S.

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Thào A S, Hà Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm mỗi bị cáo là 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng).

Các bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản sao bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2019/HS-ST ngày 02/04/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:52/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mộc Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;