TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐẮK NÔNG
BẢN ÁN 52/2019/DS-PT NGÀY 05/09/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG MUA BÁN TÀI SẢN
Ngày 05-9-2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 52/2019/TLPT-DS ngày 26-7-2019 về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản”. Do bản án Dân sự sơ thẩm số: 09/2019/DS-ST ngày 29/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 59/2019/QĐ-PT, ngày 14-8-2019, giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên (viết tắt là TNHH MTV) Y; địa chỉ: Số Q, Quốc lộ Z, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng.
Người đại diện theo pháp luật: Ông Trần Văn Y - Chức vụ: Giám đốc - Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Bị đơn: Ông Vàng A S và bà Giàng Thị D; địa chỉ: Thôn R, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông.
Người đại diện theo ủy quyền của bà Giàng Thị D: Ông Vàng A S - Có mặt.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn: Ông Y Lam và bà Nguyễn Thị Xuân, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Đắk Nông - ông Y Lam có mặt, bà Nguyễn Thị Xuân có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Giàng A P; địa chỉ: Thôn R, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông - Có mặt.
Người làm chứng: Bà Lê Thị T; địa chỉ: Số Q, Quốc lộ Z, thị trấn L, huyện Đ, tỉnh Lâm Đồng - Vắng mặt.
Do có kháng cáo của: Bị đơn ông Vàng A S.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Trần Văn Y trình bày: Năm 2017, Doanh nghiệp Tư nhân Y (hiện nay là Công ty TNHH MTV Y, gọi tắt là Công ty) tổ chức hội thảo giới thiệu phân bón của Công ty làm từ phân heo (phân hữu cơ vi sinh) trên địa bàn xã Đ. Sau buổi hội thảo người mua đăng ký mua thông qua người của Công ty và trưởng thôn là ông Giàng A P, giá bán 3.900.000 đồng/tấn, Công ty cho người dân trả chậm đến ngày 25-12-2017 (dương lịch) và thanh toán tiền cho Công ty thông qua ông P, quá thời hạn trên thì phải chịu lãi 1,5%/tháng. Ông Vàng A S, bà Giàng Thị D đã mua 03 tấn phân bón nhưng chưa thanh toán tiền cho Công ty. Vì vậy, Công ty yêu cầu ông S, bà D thanh toán cho Công ty 11.700.000 đồng tiền gốc và 2.018.000 đồng tiền lãi với mức lãi suất 1,5%/tháng (từ ngày 26-12-2017 đến ngày 06-12-2018). Tổng cộng gốc và lãi là 13.718.000 đồng. Giữa Công ty và ông P có thỏa thuận miệng với nhau về việc ông P có trách nhiệm giao phân bón cho người dân, thu tiền khi đến hạn để giao cho Công ty; ông P được Công ty thanh toán 300.000 đồng/tấn phân bán được; ông P chưa thu được tiền nên Công ty chưa trả tiền cho ông P. Trong đơn khởi kiện Công ty yêu cầu ông P chịu trách nhiệm liên đới thanh toán số tiền trên, tuy nhiên hiện nay Công ty không có yêu cầu đối với ông P.
Bị đơn ông Vàng A S, bà Giàng Thị D trình bày: Ông bà thừa nhận có mua của Công ty 03 tấn phân vi sinh, giá bán là 3.900.000 đồng/tấn; thành tiền là 11.700.000 đồng được thỏa thuận trong đơn xin mua phân bón trả chậm kiêm giấy cam kết trả nợ. Sau khi mua phân bón, ông bà thấy một số hộ dân khác sử dụng phân bón của Công ty cho cà phê làm cho cà phê bị vàng, rụng lá nên ông bà chưa sử dụng. Nay ông bà không đồng ý trả tiền và đồng ý trả lại phân cho Công ty. Về tiền lãi, do công ty không đến thu tiền theo thỏa thuận nên ông bà không đồng ý trả lãi. Ông P không liên quan đến 03 tấn phân bón ông bà mua, chỉ là người dẫn nhân viên Công ty đến để họ giao phân bón.
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Giàng A P trình bày: Năm 2017, Công ty có tổ chức hội thảo giới thiệu phân bón vi sinh làm từ phân heo. Sau buổi hội thảo Công ty cho người dân đăng ký mua phân bón và cam kết sẽ giao tận nhà cho họ và cho nợ tiền đến ngày 25-12-2017. Ông S và bà D trực tiếp đăng ký mua phân bón với Công ty; ông P và Công ty có thỏa thuận miệng với nhau về việc ông đi cùng nhân viên của Công ty khi giao phân bón và khi Công ty đi thu tiền, Công ty trả tiền cho ông 300.000 đồng/tấn bán được nhưng ông chưa được nhận. Sau khi giao phân bón, phía Công ty yêu cầu ông ký tên vào hợp đồng kiêm phiếu giao nhận hàng hóa, trong đó ông S và bà D mua 03 tấn. Từ khi giao phân bón cho đến nay Công ty không đến liên hệ với ông để đi thu tiền; Công ty có đưa cho ông ký tên một biên bản đối chiếu và xác nhận công nợ và ông đã ký; ông không có quyền lợi, hay nghĩa vụ gì đối với số lượng phân 03 tấn mà ông S và bà D đã mua nên ông không phải chịu trách nhiệm thanh toán.
Bản án sơ thẩm số: 09/2019/DS-ST ngày 29-5-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y, buộc ông Vàng A S, bà Giàng Thị D phải thanh toán cho Công ty 11.700.000đ (Mười một triệu bảy trăm ngàn đồng) tiền gốc. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty đối với 2.018.000đ (Hai triệu không trăm mười tám ngàn đồng) tiền lãi.
Ngoài ra, Toà án cấp sơ thẩm còn tuyên về nghĩa vụ chịu án phí dân sự sơ thẩm và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 10-6-2019, bị đơn ông Vàng A S làm đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y buộc ông phải trả 11.700.000 đồng.
Tại phiên tòa phúc thẩm, bị đơn ông Vàng A S vẫn giữ nguyên yêu cầu kháng cáo, đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y. Bởi vì, từ khi nhận phân bón của Công ty Y đến nay ông bà vẫn chưa sử dụng nên đề nghị trả lại phân bón và không đồng ý trả tiền cho Công ty.
Quan điểm của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn (Theo bản luận cứ ngày 05-9-2019): Khi các hộ dân phản ánh về việc bón phân của Công ty dẫn đến cây trồng bị vàng lá, chết thì Công ty không cho người đến xem xét, giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét phần lỗi của Công ty để giảm nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn. Đối với phần lãi suất thì Công ty không cho người đến thu tiền nên bị đơn không có nghĩa vụ thanh toán. Bị đơn là người dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế, xã hội khó khăn nên thuộc trường hợp được miễn án phí, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét miễn tiền án phí cho bị đơn.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông phát biểu quan điểm:
Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nội dung: Sau khi phân tích, đánh giá các tài liệu, chứng cứ được thẩm tra và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự, không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vàng A S, giữ nguyên Bản án sơ thẩm số: 09/2019/DS-ST ngày 29-5-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1]. Đơn kháng cáo của bị đơn kháng cáo trong hạn luật định và ông S thuộc trường hợp không phải nộp tạm ứng án phí phúc thẩm (là người đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có xác nhận của Ủy ban nhân dân xã Đ1) là đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2]. Xét yêu cầu kháng cáo của ông Vàng A S và lời trình bày tại phiên tòa, ông Vàng A S cho rằng sau khi nhận 03 tấn phân của Công ty cho đến nay, số phân trên ông bà vẫn chưa sử dụng mà vẫn để ở nhà nên ông bà trả lại số phân nói trên cho Công ty, không đồng ý trả tiền. Hội đồng xét xử xét thấy ông Vàng A S và bà Giàng Thị D đã nhận 03 tấn phân; chữ ký trong đơn xin mua phân bón trả chậm kiêm giấy cam kết trả nợ là của 02 vợ chồng. Hợp đồng mua bán giữa các bên là đúng quy định tại Điều 398, Điều 430 và Điều 453 của Bộ luật Dân sự. Thỏa thuận mua bán phân bón giữa Công ty và ông S, bà D là hoàn toàn tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật và không trái đạo đức xã hội theo quy định tại Điều 117 của Bộ luật Dân sự. Thực tế ông S, bà D đã nhận phân bón của Công ty nên phải có nghĩa vụ trả tiền theo quy định tại khoản 1 Điều 440 của Bộ luật dân sự. Vì vậy, lời trình bày của bị đơn ông Vàng A S là không có căn cứ; ông S cũng không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình về việc số phân bón của Công ty Y không đảm bảo chất lượng. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đắk Nông đã có quyết định không khởi tố vụ án hình sự theo tố cáo của các hộ dân thuộc xã Đ và xã Đ1, huyện Đ, tỉnh Đắk Nông về việc Công ty Y sản xuất phân bón giả (Quyết định số: 43/PC03 ngày 01-8-2019). Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm tuyên buộc ông Vàng A S, bà Giàng Thị D phải thanh toán cho Công ty TNHH MTV Y số tiền 11.700.000 đồng là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.
[3]. Xét ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn, Hội đồng xét xử xét thấy: Về phần xem xét giảm nghĩa vụ thanh toán như đã nhận định ở trên là không có căn cứ nên không chấp nhận. Về phần lãi suất, Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty đối với 2.018.000 đồng tiền lãi. Về án phí phúc thẩm: Xét đề nghị miễn án phí của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4]. Xét quan điểm đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đắk Nông tại phiên toà là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5]. Từ những phân tích và nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử xét thấy không có căn cứ chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Vàng A S, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 09/2019/DS-ST ngày 29-5-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông đối với khoản tiền 11.700.000 đồng mà ông S và bà D phải trả cho Công ty TNHH MTV Y.
[6]. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
[7]. Về án phí dân sự phúc thẩm: Ông Vàng A S là người đồng bào dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên được miễn nộp án phí.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Vàng A S, giữ nguyên bản án sơ thẩm số: 09/2019/DS-ST ngày 29-5-2019 của Tòa án nhân dân huyện Đắk Glong, tỉnh Đắk Nông đối với khoản tiền 11.700.000 đồng mà ông S và bà D phải trả cho Công ty TNHH MTV Y.
1. Áp dụng Điều 117; khoản 2 Điều 357; Điều 398; Điều 430; Điều 440; Điều 453 của Bộ luật Dân sự, Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV Y, buộc ông Vàng A S, bà Giàng Thị D phải thanh toán cho Công ty 11.700.000đ (Mười một triệu bảy trăm ngàn đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Dân sự.
2. Về án phí dân sự phúc thẩm: Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Ông Vàng A S được miễn nộp án phí phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
4. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b, và 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án 52/2019/DS-PT ngày 05/09/2019 về tranh chấp hợp đồng mua bán tài sản
Số hiệu: | 52/2019/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đăk Nông |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 05/09/2019 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về