Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về tranh chấp xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TỊNH BIÊN, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 52/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/08/2018 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN

Ngày 10 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 128/2018/TLST-HNGĐ ngày 10 tháng 5 năm 2018 về việc "Xin ly hôn" theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 47/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 7 năm 2018, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Thị Ngọc H, sinh năm 1983. HKTT: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A. Chổ ở hiện nay: số nhà 21, khóm X, thị trấn T, huyện T, tỉnh A, có mặt;

- Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1987. Địa chỉ: ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A, vắng mặt;

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện lại ngày 17 tháng 4 năm 2018 và các lời khai tại Tòa án, cũng như tại phiên tòa nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc H trình bày: bà và ông Nguyễn Thanh T chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn ngày 28 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện T. Cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, nguyên nhân do anh T không lo làm ăn, bỏ bê gia đình. Khoảng tháng 9 năm 2017 thì vợ chồng không còn chung sống với nhau và tôi đã về nhà tại ấp P, xã A sinh sống.

Về hôn nhân: yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Thanh T. 

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có.

Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết; Về nợ chung: không có.

- Đối với ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án tống đạt văn bản tố tụng thông qua việc niêm yết công khai về: thông báo thụ lý vụ án; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng bị đơn ông T vắng mặt, nên Tòa án tiến hành lập biên bản kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và lập biên bản không tiến hành hòa giải được.

Ngày 20-7-2018 Tòa án mở phiên tòa xét xử và đã triệu tập hợp lệ các đương sự nhưng chỉ có mặt nguyên đơn, bị đơn vắng mặt không có lý do nên Tòa án hoãn phiên tòa lần thứ nhất.

Tại phiên tòa hôm nay, ông T vắng mặt. Nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc H vẫn giữ nguyên yêu cầu và không cung cấp tài liệu chứng cứ gì thêm cho Tòa án.

* Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Tịnh Biên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục xét xử sơ thẩm vụ án theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với người tham gia tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định tại Điều 70, 71, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Về quan hệ hôn nhân giữa bà H và ông T có đăng ký kết hôn, nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Xét thấy về tình cảm bà H và ông T không còn hạnh phúc, cả hai bỏ mặt không còn quan tâm, chung sống với nhau, thể hiện từ tháng 9 năm 2017 thì bà H đã về nhà tại ấp P, xã A, huyện T sống. Như vậy, thấy rằng cuộc sống hôn nhân đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt, về con chung, tài sản chung, nợ chung: không có. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 51, Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu của bà Lê Thị Ngọc H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

- Bị đơn ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên triệu tập hợp lệ có mặt tại phiên tòa lần thứ hai, nhưng vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án tiến hành xét xử vụ án.

- Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Thanh T có đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp V, xã V, huyện T, tỉnh A. Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên thụ lý, giải quyết là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về nội dung vụ án:

- Về hôn nhân: Bà H và ông T chung sống với nhau có đăng ký kết hôn ngày 28 tháng 12 năm 2015 tại Ủy ban nhân dân xã V, huyện T theo đúng quy định tại Điều 8, Điều 9 Luật hôn nhân gia đình năm 2014, nên đây là hôn nhân hợp pháp. Theo biên bản xác minh tại địa phương ngày 02 tháng 7 năm 2018 và lời khai của nguyên đơn, thì thấy rằng giữa bà H và ông T đã không còn sống chung với nhau, cả hai bỏ mặt không còn quan tâm, thể hiện từ tháng 9 năm 2017 thì bà H đã về nhà tại ấp P, xã A, huyện T sinh sống, bỏ mặt không quan tâm lẫn nhau. Điều này chứng minh tình cảm của vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà Lê Thị Ngọc H xin ly hôn là có căn cứ.

- Về quan hệ con chung: không có.

- Về quan hệ tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: bà H khai không có.

Do đó, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa đề nghị Hồi đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có cơ sở.

[3] Về án phí: bà Lê Thị Ngọc H khởi kiện xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự hôn nhân sơ thẩm theo mức không giá ngạch. Ông Nguyễn Thanh T không phải chịu án phí.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình 2014;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị Ngọc H xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

- Về con chung: không có.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không có.

2. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị Ngọc H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số: TU/2016/0004186 ngày 10 tháng 5 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tịnh Biên. Bà H đã nộp xong.

3. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyên thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành được thực hiện theo qui định tại Điều 30 luật thi hành dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

267
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2018/HNGĐ-ST ngày 10/08/2018 về tranh chấp xin ly hôn

Số hiệu:52/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tịnh Biên - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;