Bản án 52/2017/HSST ngày 03/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 52/2017/HSST NGÀY 03/08/2017 VỀ TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 03 tháng 8 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 69/2017/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2017 đối với bị cáo:

Cao Thanh H - sinh năm 1968; Nơi đăng ký NKTT: phường A, thành phố B, tỉnh C; Chỗ ở:Trần Phú, phường D, thành phố E, tỉnh G; Nghề nghiệp: Không; Trình độ học vấn: 5/12; Con ông Cao C (không xác định được ngày tháng năm sinh) và bà Trần Thị P (Chết); Vợ: Lê Thị L  (sinh năm 1965, không có đăng ký kết hôn); Con: có 02 con (lớn sinh năm 1993, nhỏ sinh năm 1995); Tiền sự: không; Tiền án: Ngày 02/01/1989 Toà án nhân dân tỉnh P (Nay là tỉnh K) xử phạt 03 năm từ về tội “Trộm cắp tài sản”, đang ch p hành án thì bỏ trốn; Ngày 26/02/1998 Tòa án nhân dân tỉnh Đ xử phạt 43 tháng 28 ngày từ về tội “Trộm cắp tài sản” và “Trốn khỏi nơi giam”, ch p hành xong ngày 12/3/2001; Ngày 20/3/2003, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng xử phạt 10 năm từ về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 22/5/2010; Ngày 29/7/2011 Tòa án nhân dân tỉnh Q xử phạt 24 tháng từ về tội “Trộm cắp tài sản”, chấp hành xong ngày 06/11/2012. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 06/11/2016; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

* Nguyên đơn dân sự: Công ty cổ phần vật liệu xây dựng K Địa chỉ: phường S, thành phố T, tỉnh K.

Đại diện theo pháp luật của nguyên đơn dân sự: Ông Nguyễn Văn H – Chủ tịch hội đồng quản trị Công ty cổ phần vật liệu xây dựng K.

Đại diện theo ủy quyền của của nguyên đơn dân sự: H – sinh năm 1982 – Nhân viên bán hàng Xí nghiệp gạch ngói D (văn bản ủy quyền ngày 01/4/2017).Địa chỉ:  Thôn A, xã P, huyện K, tỉnh K. (Bà H có mặt)

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: L – sinh năm 1965

Địa chỉ: phường C, thành phố E, tỉnh Đắk Lắk. (Vắng mặt)

NHẬN THẤY

Bị cáo Cao Thanh H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sau khi bàn bạc, khoảng 23 giờ 30 phút ngày 08/10/2016, Cao Thanh H và một người đàn ông tên N (chưa xác định nhân thân lai lịch) điều khiển xe mô tô kiểu dáng Air Blade (không rõ biển kiểm soát) từ thành phố T đến nhà máy gạch tuy- nen (thuộc Công ty cổ phần vật liệu xây dựng K tại xã T, huyện K) để trộm cắp tài sản. Khoảng 00 giờ 05 phút ngày 09/10/2016 thì đến nơi, N đứng ngoài cảnh giới. H cầm theo búa nhổ đinh, kìm cắt sắt, xà peng và đục (H mua trước đó) đột nhập vào, đến phòng thống kê của nhà máy. H dùng kìm để cắt khóa cửa phòng. Th y két sắt (hiệu DENIS FFRERES) trong phòng thì H gọi N vào cùng nhau khiêng két sắt ra ngoài bãi đ t trống nằm ngoài khuôn viên nhà máy, cách phòng hành chính khoảng 15 mét. Tại đây, vì két sắt quá nặng, sợ mang cả két sắt đi sẽ bị phát hiện nên N d  ng đèn pin chiếu sáng để H d  ng dụng cụ đục két sắt. Đến khoảng 03 giờ 30 phút thì phá được két sắt. H l y 167.000.000 đồng (một trăm sáu mươi bảy triệu đồng) và bỏ két sắt lại tại hiện trường c ng với 9.403.000 đồng còn lại và các gi y tờ còn trong két sắt. Sau đó, H và N đi về thành phố T. Trên đường, H vứt toàn bộ dụng cụ phá két sắt trên đường 23/10, rồi đến ngã ba H, thành phố  T thuê trọ. Tại đây, H chia cho N 80.000.000 đồng, số tiền còn lại H cất giữ. Đến khoảng 10 giờ ngày 09/10/2016, cả hai trả phòng ra về. H đem số tiền trộm cắp được chuyển vào tài khoản của vợ là Lê Thị L (không đăng ký kết hôn) tại Ngân hàng A số tiền 37.500.000 đồng và chuyển vào tài khoản của H tại Ngân hàng A số tiền 40.000.000 đồng. Số tiền còn lại H tiêu xài hết. Sau khi phát hiện m t tài sản, nhân viên nhà máy gạch Tuy-nen trình báo Cơ quan công an huyện K.

Tại Cơ quan cảnh sát điều tra – Công an huyện K, Cao Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

Quá trình điều tra, Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện K đã thu giữ của H 18.000.000 đồng và Lê Thị L đã nộp 60.000.000 đồng để khắc phục hậu quả.

Tại bản kết luận định giá về tài sản số 93/KLĐG ngày 13/10/2016 của Hội đồng định giá tài sản huyện K xác định két sắt Nhà máy gạch Tuy nen bị thiệt hại trị giá là: 2.850.000 đồng. Tại bản kết luận giám định số 416 ngày 05/11/2016 của Phòng kỹ thuật hình sự

- Công an tỉnh H kết luận d u vân tay thu được tại két sắt và d u vân tay của Cao Thanh H là của c ng một người.

Tại bản Cáo trạng số 56/CT- VKS ngày 06 tháng 7 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Cao Thanh H về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Khánh, tỉnh K giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng điểm c, e khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự xử phạt Cao Thanh H từ 05 năm từ đến 06 năm từ về tội “Trộm cắp tài sản”;.Về trách nhiệm dân sự: Đề nghị Hội đồng xét xử ghi nhận sự tự nguyện giữa bị cáo và đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn dân sự, buộc bị cáo phải tiếp tục trả cho nguyên đơn dân sự số tiền 107.000.000 đồng; Tiếp tục tạm giữ số tiền 18.000.000 đồng tại gi y nộp tiền số CT 0001276 ngày 08/12/2016 do Công an huyện K nộp tại kho bạc Nhà nước huyện H để đảm bảo thihành án. Về vật chứng: Nguyên đơn dân sự không có yêu cầu gì nên đề nghị HĐXX tịch thu tiêu hủy 01 (một) két sắt hiệu DENIS FFRERES, màu xám.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Về tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn xin vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt theo Điều 191 Bộ luật tố tụng hình sự. Tại phiên toà, bị cáo Cao Thanh H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K truy tố.

Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của nguyên đơn dân sự, người làm chứng và các tài liệu chứng cứ thu thập được có trong hồ sơ vụ án đã thẩm tra công khai tại phiên tòa. Như vậy có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”. Viện kiểm sát nhân dân huyện H truy tố bị cáo về tội danh nói trên theo điểm c, e khoản 2 Điều 138 của Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp về tài sản của công dân, gây m t trật tự trị an ở địa phương. Hành vi phạm tội của bị cáo thể hiện sự ngang nhiên, xem thường pháp luật, lợi dụng sự sơ hở của người khác để trộm cắp tài sản. Bị cáo là thanh niên có sức khỏe, trong độ tuổi lao động nhưng không tu chí làm ăn. Bị cáo đã nhiều lần bị xử phạt t  về nhà vi “Trộm cắp tài sản”, khi ch p hành xong hình phạt từ của các bản án trước, không l y đó làm bài học cho bản thân mà tiếp tục phạm tội trộm cắp, chứng tỏ bị cáo không có chí hướng phục thiện. Do vậy phải cần được xử lý nghiêm khắc mới có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại phiên toà cũng như trong quá trình điều tra, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về lỗi lầm của mình, bị cáo đã tự nguyện nộp lại một phần tiền và vận động vợ bị cáo nộp tiền để khắc phục một phần hậu quả. Vì vậy cần được xem xét các tình tiết này để giảm nhẹ về mặt hình phạt cho bị cáo.

Đối với đối tượng tên N là người c ng Cao Thanh H thực hiện hành vi phạm tội, đến nay chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan Cảnh sát điều tra – Công an huyện K tiếp tục điều tra, xác minh và xử lý sau nên không xét.

Đối với Lê Thị L đã nhận và sử dụng số tiền 37.500.000 đồng do Cao Thanh Hchuyển vào tài khoản nhưng không biết nguồn gốc số tiền do H phạm tội nên khôngxem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Cần ghi nhận sự tự nguyện tiếp tục bồi thường giữa bị cáo và nguyên đơn dân sự, buộc bị cáo phải tiếp tục bồi thường cho nguyên đơn dân sự số tiền 107.000.000 đồng. Đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì về việc tự nguyện nộp lại số tiền 60.000.000 đồng để khắc phục hậu quả nên không xét.

Về vật chứng vụ án Số tiền 18.000.000 đồng hiện đạng tạm giữ tại Kho bạc Nhà nước huyện K là số tiền thu giữ của bị cáo nên cần tiếp tục tạm giữ để đảm bảo công tác thi hành án.

Vật chứng khác: Đối với két sắt hiệu DENIS FFRERES không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

Về án phí: Bị cáo Cao Thanh H phải nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố

Bị cáo Cao Thanh H phạm tội “Trộm cắp tài sản”;Áp dụng điểm c, e khoản 2 Điều 138; điểm b, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự đối với Cao Thanh H.

Xử phạt: 

Cao Thanh H 04 (bốn) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt từ tính từ ngày 06/11/2016.

Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo tiếp tục bồi thường cho nguyên đơn dân sự số tiền 107.000.000 đồng (Một trăm lẻ bảy triệu đồng).

Quy định:

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật và có đơn yêu cầu thi hành án của công ty cổ phần xây dựng K không thi hành đủ số tiền nêu trên thì hàng tháng c n phải chịu thêm khoản tiền lãi t nh theo lãi su  t được xác định bằng 50% mức lãi su t giới hạn theo quy định tại khoản 1 Điều 468 Bộ luật dân sự tương ứng với thời gian chậm trả tại thời điểm thanh toán.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành, theo quy định tại Điều Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền th a thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, và  Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.

Về xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tiếp tục tạm giữ số tiền 18.000.000 đồng (mười tám triệu đồng) tại giấy nộp tiền sốCT 0001276 ngày 08/12/2016 do Công an huyện H nộp tại kho bạc Nhà nước huyện H để đảm bảo thi hành án.

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) két sắt hiệu DENIS FFRERES, màu xám (Theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện K và Chi cục Thi hành án  dân sự huyện H ngày 04/4/2017).

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm và 5.350.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo; nguyên đơn dân sự; có quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 52/2017/HSST ngày 03/08/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:52/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Ninh Hòa - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;