Bản án 521/2019/HS-PT ngày 13/11/2019 về tội trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 521/2019/HS-PT NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN, TIÊU THỤ TÀI SẢN DO NGƯỜI KHÁC PHẠM TỘI MÀ CÓ VÀ SỬ DỤNG TÀI LIỆU GIẢ CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC

Ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 446/HSPT/TLPT-HS ngày 08/10/2019 đối với bị cáo Nguyễn Thành A, Đặng B và Trương E. Do có kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đối với bản án hình sự sơ thẩm số 73/2019/HS-ST, ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh.

Các bị cáo không kháng cáo, bị kháng nghị:

1/ Nguyễn Thành A, sinh năm 1987 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú tại 36A HVC, phường K, quận L, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp không; trình độ học vấn lớp 6/12; dân tộc Kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C và bà Trang Thị D; hoàn cảnh gia đình: có vợ và 03 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 26/01/2005 bị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp tài sản” và 01 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”, tổng hợp hình phạt của 02 tội là 05 năm tù (Theo bản án số 173/20105/HSST).

Tm giam từ ngày 17/12/2018 đến nay (có mặt).

2/ Đặng B; sinh năm 1995 tại tỉnh Đồng Tháp; thường trú tại 152/1 ấp N, xã M, thành phố O, tỉnh Đồng Tháp; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp làm thuê; trình độ học vấn lớp 9/12; dân tộc kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Đặng Văn G và bà Trương Thị F; tiền án: không; tiền sự: không; bị tạm giam từ ngày 11/4/2019 đến nay, có mặt.

3/ Trương E, sinh năm 1995 tại tỉnh Vĩnh Long; thường trú tại ấp Tân Mỹ A, xã Chánh An, huyện J, tỉnh Vĩnh Long; chỗ ở: không có nơi cư trú ổn định; nghề nghiệp làm thuê; trình độ học vấn lớp 12/12; dân tộc Kinh; giới tính nam; tôn giáo không; quốc tịch Việt Nam; con ông Trương Ngọc H và bà Nguyễn Thị I; tiền án không; tiền sự không; bị tạm giam từ ngày 11/4/2019 đến nay, có mặt.

Người bào chữa: Ông Trịnh Bá Thân - Luật sư của Văn phòng Luật sư Trịnh Bá Thân, thuộc Đoàn Luật sư Thành phố Hồ Chí Minh, bào chữa cho bị cáo Trương E (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 01 giờ ngày 12/12/2018, bị cáo Nguyễn Thành A đem theo 01 mỏ lết, 01 đoản hình chữ L, loại tự chế dùng phá ổ khóa xe, đi bộ qua nhiều tuyến đường quận Tân Phú mục đích tìm nhà nào có tài sản để sơ hở thì chiếm đoạt. Khi đi đến nhà trọ số 139/19 đường Dương Văn Dương, phường Tân Quý, quận Tân Phú, thấy phòng trọ số 4 do ông Nguyễn Quang Sơn thuê ở, khóa cửa bên ngoài, nên dùng mỏ lết bẻ khoen khóa cửa vào trong nhà. Thấy có 02 chiếc xe máy để ngay tại cửa ra vào nên bị cáo A dùng cây đoản hình chữ L phá ổ khóa xe Honda hiệu AirBalde, biển số 59Y2-501.03 rồi dẫn ra ngoài nổ máy và điều khiển chiếc xe trên đến gửi vào chỗ để xe của cửa hàng kinh doanh trò chơi điện tử Phúc Nguyên, số 127 đường Ni Sư Huỳnh Liên, Phường 10, quận Tân Bình.

Đến khoảng 19 giờ cùng ngày, A đi bộ từ nhà ra đường Lê Đại Hành, Quận X. Khi đi đến nhà số 467A/112 đường Lê Đại Hành, Phường 11, Quận X thì nhìn thấy chiếc xe AirBlade biển số 59M1 – 568.36 của ông Nguyễn Quang Vinh để phía trước, không có người trông coi, nên dùng cây đoản loại tự chế phá ổ khóa công tắc xe, rồi dẫn xe ra ngoài nổ máy điều khiển xe chạy đến cửa hàng kinh doanh trò chơi điện tử Phúc Nguyên, số 127 đường Ni Sư Huỳnh Liên, Phường 10, quận Tân Bình. Tại đây, bị cáo A tháo 02 biển số 59Y2 - 501.03 và 59M1 – 568.36 của 02 chiếc xe AirBalde ra tráo đổi với nhau và sau đó điện thoại cho Đỗ Hoàng P đến bán chiếc xe chiếm đoạt của anh Vinh được gắn biển số 59Y2 – 501.03 với số tiền 10.000.000 đồng. Trong lúc trao đổi bán xe thì bị cáo A cho P biết xe trên vừa chiếm đoạt ở Quận X nhưng P vẫn đồng ý mua. Riêng chiếc xe chiếm đoạt của anh Phạm Quang Sơn được gắn biển số 59M1 – 586.36 thì bị cáo A bán cho một người chơi trò chơi điện tử tại cửa hàng Phúc Nguyên tên là Phương với giá 5.000.000 đồng.

Vào lúc 22 giờ 30 phút ngày 17/12/2018, bị cáo Nguyễn Thành A điều khiển xe Yamamha hiệu Sirius, biển số 76M1 – 124.09 chở Võ Thị Thúy Q (không rõ lai lịch) lưu thông trên đường Bàu Cát, quận Tân Bình. Khi đến trước nhà số 293/3 đường Bàu Cát, thuộc Phường 12, quận Tân Bình, do ông Dương Đình R thuê ở thì thấy cửa nhà khép hờ, bên trong có nhiều xe máy nên bị cáo A dừng xe lại, rồi nói Hoàng ngồi chờ. Bị cáo A mở cốp xe để lấy bộ dụng cụ phá ổ khóa, rồi đi bộ quay lại nhà của ông Nam. Thấy không có người trông coi nên bị cáo A mở cửa đi vào trong nhà và lấy chiếc xe Honda hiệu Airblade biển số 92H6 – 9207 dẫn ra ngoài đường. Khi dẫn xe đi bộ được khoảng 4 mét thì đèn xe tự bật sáng, khóa công tắc xe tự mở nên bị cáo A tiếp tục đẩy xe về hướng Hoàng đang chờ. Lúc này, ông Trần Hồ Nam S nhìn thấy nên hỏi bị cáo A dẫn xe của ai và nghi ngờ nên chạy bộ đuổi theo. Khi bị cáo A điều khiển xe chở Hoàng bỏ chạy thì anh Triều nắm xe kéo lại và cùng nhiều người dân bắt giữ bị cáo A giao Công an Phường 12, quận Tân Bình. Riêng Hoàng đã bỏ chạy thoát.

Sau khi mua chiếc xe gắn biển số: 59Y2 – 501.03 của bị cáo A thì Đỗ Hoàng P bán lại cho bị cáo Trương E với số tiền 12.000.000 đồng và sau đó E bán lại cho bị cáo Đặng B 12.500.000 đồng. Khi giao dịch mua bán xe, E và B đều biết rõ xe do phạm tội mà có.

Khi mua xe, bị cáo B lên mạng Internet liên hệ một người với tên Công (không rõ lai lịch) nhờ làm giả giấy đăng ký xe máy, với giá 1.000.000 đồng. Bị cáo B nói cho Công biết màu sơn, loại xe Airbalde, biển số: 59Y2-501.03 và số khung, số máy của xe. Khoảng 02 ngày sau thì có một nhân viên bưu điện đến giao bưu phẩm, bên trong có giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy số 025989, nhãn hiệu Honda, số loại Airbalde, biển số 59Y2-501.03, số máy JF46E0073284, số khung 4602DY400988 tên chủ xe Dương Văn Tân, có địa chỉ 156/42 đường Cộng Hòa, Phường 4, quân Tân Bình và nhận số tiền 1.000.000 đồng. Bị cáo B sử dụng xe và giấy Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy giả trên đi lại hàng ngày và đăng bán xe trên qua mạng xã hội. Đến ngày 21/12/2018, khi bị cáo B đang giao dịch mua bán xe thì bị Công an quận Tân Phú kiểm tra và thu giữ. Công an quận Tân Phú chuyển chiếc xe máy hiệu Airblade, gắn biển số 59Y2 - 501.03, có số khung 4602DY400988, số máy JF46E0073284 của ông Nguyễn Quang Vinh bị mất vào ngày 12/12/2018 đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X xử lý.

Theo kết luận định giá tài sản số 01/KLĐGTS, ngày 02/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận X kết luận: Chiếc xe hiệu AirBlade biển số 59M1 – 568.36, số máy: JF46E0073284, số khung: 4602DY400988 của anh Nguyễn Quang Vinh, đã qua sử dụng, có giá trị là 22.000.000 đồng.

Theo kết luận định giá tài sản số 17/KL-HĐĐGTS-TTHS ngày 11/01/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Phú kết luận: Chiếc xe Honda hiệu AirBalde biển số 59Y2 – 501.03, màu sơn đen, đỏ trắng số máy: F46E-4273952, số khung: 09DY-364815 của ông Nguyễn Quang Sơn đã qua sử dụng, tỷ lệ còn lại 75%, có trị giá là 26.000.000 đồng.

Theo kết luận định giá tài sản số 346/HĐĐGTS-TTHS, ngày 28/12/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự quận Tân Bình kết luận: Chiếc xe Honda hiệu AirBlade, biển số 92H6 – 9207, màu sơn đen bạc, có số máy: JF27E0415468, số khung: Y366584 của ông Dương Đình Nam đã qua sử dụng, máy còn nguyên thủy, chất lượng còn lại 50%, có trị giá là 20.000.000 đồng.

Theo kết luận giám định số 517/KLGĐ-TT ngày 27/3/2019 của Phòng Kỹ Thuật hình sự Công an Thành phố Hồ Chí Minh (PC09) kết luận: 01 giấy “Chứng nhận đăng ký xe mô tô, xe máy” số: 025989, nhãn hiệu Honda, số loại Airbalde, biển số: 59Y2-501.03, số máy: JF46E0073284, số khung: 4602DY400988 tên chủ xe Dương Văn Tân, địa chỉ: 156/4/2 đường Cộng Hòa, Phường 4, quận Tân Bình. Ký hiệu A1 là “Chứng nhận đăng ký xe giả” (Bản in, mẫu giấy được in giả bằng phương pháp in phun màu, hình dấu được đóng giả, chữ ký được ký giả trực tiếp).

Sau khi làm việc với Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận X về thì Đỗ Hoàng P bỏ đi khỏi nơi cư trú, không rõ nơi ở mới nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận X ra Quyết định tạm đình chỉ điều tra bị can và Quyết định truy nã đối với Đõ Hoàng P, khi nào bắt được sẽ xử lý sau.

Đối với hành vi mua bán chiếc xe biển số 68X1 – 338.90 của Trương E, Cơ quan điều tra Công an quận Tân Phú đang thụ lý điều tra.

Tại bản án hình sự sơ thẩm số 73/2019/HSST, ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:

- Căn cứ vào Điều 50; điểm c khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Nguyễn Thành A;

- Căn cứ vào Điều 50; khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51; khoản 1 Điều 341; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Đặng B;

- Căn cứ vào Điều 50; khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với bị cáo Trương E;

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành A phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Đặng B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”; bị cáo Trương E phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành A 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018; phạt bổ sung bị cáo số tiền 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng).

Xử phạt bị cáo Đặng B 06 (sáu) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 06 (sáu) tháng tù về tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của cả hai tội là 01 (một) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2019.

Xử phạt bị cáo Trương E 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2019.

Ngoài ra Tòa án cấp sơ thẩm còn xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.

Sau khi xét xử sơ thẩm, vào ngày 20/9/2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh ra Quyết định kháng nghị số 04/QĐ-KNPT đề nghị cấp phúc thẩm sửa Bản sơ thẩm theo hướng:

-Tăng mức hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Thành A, Đặng B và Trương E, do bị cáo A có nhân thân xấu, phạm tội nhiều lần, tính chất phạm tội nghiêm trọng; bị cáo Đặng B phạm hai tội, bị cáo Trương E lần phạm tội này còn thực hiện hành vi phạm tội tại quận Tân Phú hiện đang bị điều tra nhưng cấp sơ thẩm áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 cho hai bị cáo này và xử phạt mức án khởi điểm là không đúng quy định của Điều 51 của Bộ luật hình sự và Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của Tòa án nhân dân tối cao.

- Đề nghị cấp phúc thẩm tuyên tịch thu tiêu hủy 01 giấy đăng ký xe biển số 62P1-41851 và biển số xe 62P1-41851 được gắn vào xe máy hiệu Exciter bị đục mài số khung, số máy. Tòa án cấp sơ thẩm thông báo trong hạn 12 tháng nếu không có người đến nhận thì tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước hai vật chứng trên là không đúng quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

- Đề nghị cấp phúc thẩm tuyên lưu 01 DVD – R Maxell màu vàng ghi lại cảnh Nguyễn Thành A “Trộm cắp tài sản” tại Phường 12, quận Tân Bình vào hồ sơ vụ án và tuyên hủy Giấy chứng nhận đăng ký xe giả mang số 025989 tên chủ xe là Dương Văn Tân. Hai vật chứng này cấp sơ thẩm không tuyên xử lý là xét xử không đầy đủ, có thiếu sót.

- Đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng điểm g khoản 1 Điều 52 và khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 để xét xử đối với bị cáo Nguyễn Thành A, do cấp sơ thẩm áp dụng không đầy đủ.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi phân tích tính chất mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ đối với các bị cáo; phân tích các qui định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 và Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 về xử lý vật chứng đã đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận X như sau: Tăng hình phạt đối với bị cáo A từ 03 năm tù lên 03 năm 06 tháng tù; không áp dụng điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi năm 2017 đối với bị cáo B và tăng hình phạt từ 06 tháng tù lên 09 tháng tù đối với bị cáo B về tội “Tiêu thụ tài ản do người khác phạm tội mà có”; bị cáo E tuy được áp dụng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu trong trường hợp ít nghiêm trọng nên rút kháng nghị về phần này nhưng bị cáo có nhân thân xấu nên đề nghị chấp nhận phần kháng nghị về tăng hình phạt và tăng từ 06 tháng tù lên 09 tháng tù. Về xử lý vật chứng đề nghị chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân Quận X.

Các bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như Bản án sơ thẩm đã nêu. Bị cáo A và bị cáo B không có ý kiến tranh luận gì, trong lời nói sau cùng hai bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên mức hình phạt của Bản án sơ thẩm.

Luật sư bào chữa cho bị cáo Trương E đề nghị cấp phúc thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu và trong trường hợp ít nghiêm trọng đối với bị cáo E. Luật sư đề nghị cấp phúc thẩm xem xét tuyên bị cáo mức án bằng thời gian tạm giam.

Bị cáo E không có ý kiến tranh luận gì và trong lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận đề nghị của luật sư bào chữa cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân Quận X phù hợp với quy định tại Điều 336 và Điều 337 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, đủ điều kiện để giải quyết theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Xét lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phúc thẩm phù hợp với lời khai tại giai đoạn sơ thẩm, phù hợp với lời khai của bị hại và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo Nguyễn Thành A phạm tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm c khoản 2 Điều 173; bị cáo Đặng B phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” theo khoản 1 Điều 323 và khoản 1 Điều 341; bị cáo Trương E phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, là có căn cứ, đúng tội.

[3] Xét Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Quận X đối với bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy rằng:

Bị cáo Nguyễn Thành A có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án xử phạt 5 năm tù về tội “Cướp tài sản” và tội “Cướp gật tài sản”, nhưng khi mãng hạn tù về lại địa phương bị cáo không chịu hoàn lương mà tiếp tục phạm tội và chỉ trong thời gian ngắn từ ngày 12/12/2018 đến ngày 17/12/2018 bị cáo đã ba lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, gây thiệt hại về tài sản đối với nhiều người, gây mất trật tự an toàn xã hội ở nhiều địa phương. Cấp sơ thẩm chỉ xử phạt bị cáo 3 năm tù là nhẹ, không đảm bảo tính giáo dục đối với bị cáo và răng đe cho người khác. Do đó chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát, tăng hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Thành A.

Bị cáo Đặng B, tuy trước đây chưa phạm tội nhưng lần phạm tội này bị cáo phạm vào hai tội và bị truy cứu trong cùng một vụ án, nên không thuộc trường hợp “Phạm tội lần đầu và trong trường hợp ít nghiêm trọng”qui định tại điểm i khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ này cho bị cáo B là không đúng luật và xử phạt bị cáo B mức án khởi điểm của mỗi tội là nhẹ. Song Viện kiểm sát chỉ kháng nghị đề nghị tăng hình phạt đối với tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” nên cấp phúc thẩm chỉ tăng hình phạt đối với tội này.

Tại phiên tòa phúc thẩm đại diện Viện kiểm sát rút phần kháng nghị về việc không áp dụng tình “Phạm tội lần đầu và trong trường hợp ít nghiêm trọng” đối với bị cáo Trương E, nhưng vẫn đề nghị cấp phúc thẩm chấp nhận phần kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo này, vì nhân thân của bị cáo không tốt. Hội đồng xét xử thấy rằng trước khi phạm vào này thì bị cáo Trương E chưa phạm tội lần nào và hành vi tiêu thụ chiếc xe biển số 68X1 – 338.90 của Trương E phạm tội mà có xảy ra sau và theo Đại diện viện kiểm sát thì hành vi này chưa bị khởi tố bị can, Cơ quan điều tra Công an quận Tân Phú mới đang xử lý tin báo về tội phạm nên cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết phạm tội lần đầu và trong trường hợp ít nghiêm trọng qui định tại điểm i khoản 1 Điều 51của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo E là có căn cứ, đúng luật, nên Viện kiểm sát rút kháng nghị về phần này là có căn cứ. Song Tội phạm trộm cắp xe mô-tô và mua bán xe trộm cắp xảy ra trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh ngày càng nhiều nên mức án 6 tháng tù mà cấp sơ thẩm áp dụng cho bị cáo E là có phần nhẹ nên chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát tăng hình phạt đối với bị cáo E, song mức tăng phải ít hơn so với mức tăng đối với bị cáo B.

- Bị cáo Nguyễn Thành A phạm vào tình tiết tăng nặng “Phạm tội 2 lần trở lên”, nhưng cấp sơ thẩm ghi áp dụng điểm g, Điều 52, không ghi khoản 1 là thiếu sót;

- Về hình phạt bổ sung: Trong phần Quyết định cấp sơ thẩm không áp dụng khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, là thiếu sót.

Về xử lý vật chứng:

- 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang số 025989, tên chủ xe Dương Văn Tân là giấy tờ làm giả, nhưng cấp sơ thẩm không áp dụng điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự tuyên tịch thu tiêu hủy là thiếu sót.

- 01 đĩa DVD – R Maxell màu vàng ghi lại cảnh Nguyễn Thành A “Trộm cắp tài sản” tại Phường 12, quận Tân Bình là chứng cứ chứng minh tội phạm, phải lưu vào hồ sơ vụ án trong phần nhận định cấp sơ thẩm có nhận định, song trong phần Quyết định không tuyên là thiếu sót.

- 01 giấy đăng ký xe biển số 62P1-41851 mang tên Đỗ Công Phúc và biển số xe 62P1-41851 được gắn vào xe máy hiệu Exciter bị đục mài số khung, số máy. Cơ quan điều tra đã mời người có tên trên giấy đăng ký xe trên để làm việc nhưng không đến. Do đó thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 12 tháng nếu ông Đỗ Công Phúc không đến nhận thì tuyên tịch thu tiêu hủy như quy định tại điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

Do đó chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát sửa bản án sơ thẩm về những thiếu sót như đã nêu trên.

[4] Các thiếu sót khác không bị kháng nghị, kháng cáo:

- Trong vụ án này Đỗ Hoàng P cũng bị Cơ quan điều tra khởi tố bị can về hành vi “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Song trong quá trình điều tra P đã bỏ trốn, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định truy nã đối với P, nhưng cấp sơ thẩm đưa P vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan là vi phạm tố tụng.

- Luật không tính lãi suất đối với khoản tiền phạt bổ sung khi bị cáo chậm thi hành, nhưng cấp sơ thẩm tuyên tính lãi chậm thực hiện hình phạt bổ sung đối với bị cáo Nguyễn Thành A là không đúng nên cần phải sửa cho đúng luật.

Về án phí: Các bị cáo không phải chịuán phí phúc thẩm.

các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 357 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 73/2019/HSST, ngày 06/9/2019 của Tòa án nhân dân Quận X, Thành phố Hồ Chí Minh như sau:

- Căn cứ điểm c khoản 2, khoản 5 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51 và điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

1/ Xử phạt: Nguyễn Thành A 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2018. Phạt bổ sung đối với Nguyễn Thành A 5.00.000 (Năm triệu) đồng.

- Căn cứ khoản 1 Điều 323, khoản 1 Điều 341, điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

2/ Xử phạt: Đng B 09 (Chín) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và 06 (Sáu) tháng tù tội “Sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức”. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo B phải chấp hành một hình phạt chung của hai tội là 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 11/4/2019.

- Căn cứ khoản 1 Điều 323; điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017:

3/ Xử phạt: Trương E 07 (Bảy) tháng 02 (Hai) ngày tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời hạn tù tính từ ngày11/4/2019. Bị cáo E đã chấp hành xong hình phạt.

Căn cứ khoản 5 Điều 328 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên trả tự do cho bị cáo Trương E ngay sau khi kết thúc phiên tòa, nếu bị cáo E không bị giam, giữ về một tội phạm khác.

Về vật chứng:

- Căn cứ điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tuyên tịch thu tiêu hủy 01 giấy chứng nhận đăng ký xe mang số 025989, tên chủ xe Dương Văn Tân;

- Thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng trong thời hạn 12 tháng nếu ông Đỗ Công Phúc không đến nhận 01 giấy đăng ký xe biển số 62P1- 41851 và biển số xe 62P1-41851 thì tịch thu tiêu hủy.

- Căn cứ Điều 105 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Đưa vào hồ sơ vụ án để lưu giữ 01 DVD – R Maxell màu vàng ghi lại cảnh Nguyễn Thành A “Trộm cắp tài sản” tại Phường 12, quận Tân Bình.

Bị cáo Nguyễn Thành A không phải chịu lãi suất đối với khoản tiền phạt bổ sung.

Về án phí: Áp dụng Điều 135; khoản 2 Điều 136 của Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội:

c bị cáo không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm.

Các quyết định khác của bản án hình sự sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

390
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 521/2019/HS-PT ngày 13/11/2019 về tội trộm cắp tài sản, tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có và sử dụng tài liệu giả của cơ quan, tổ chức

Số hiệu:521/2019/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;