Bản án 520/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về xin ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 520/2018/HNGĐ-ST NGÀY 28/12/2018 VỀ XIN LY HÔN

 Ngày 28/12/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân TP Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 2168/2018/TLST-HNGĐ ngày 18/9/2018 về việc “Xin ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 476/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 23/11/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 789/2018/QĐST-HNGĐ ngày 11/12/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phan Thị Thu Th, sinh năm 1986.

- Bị đơn: Ông Hoàng Công T, sinh năm 1978.

Cùng địa chỉ: xã T, TP. B, tỉnh Đ.

(Bà Th có đơn xin vắng mặt còn ông T vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của bà Phan Thị Thu Th thì bà và ông Hoàng Công T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tạ i UBND xã I, huyện Đ, tỉnh G trên cơ sở cả hai tự nguyện.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được thời gian đầu và có được với nhau một người con chung nhưng khoảng từ đầu năm 2015 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình không còn hòa hợp, bất đồng về quan điểm sống, dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột. Vì không muốn gia đình đổ vỡ, bà đã nhiều lần tìm cách hàn gắn tình cảm để vợ chồng tiếp tục cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng cho đến nay mâu thuẫn vợ chồng không được cải thiện mà ngày càng trở lên trầm trọng. Do mâu thuẫn vợ chồng không thể hàn gắn được nên bà và ông T đã sống ly thân với nay khoảng 01 năm nay, không ai còn quan tâm đến ai nữa. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông T để trả tự do cho nhau.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Hoàng Thị Thiên A, sinh ngày 16/10/2008. Ly hôn bà xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động và tạm thời bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung vì kể từ khi sống ly thân với nhau cho đến nay cháu A do tôi chăm sóc, nuôi dưỡng, ông T cũng không hề quan tâm gì đến mẹ con bà.

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Hoàng Công T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các thủ tục tố tụng để đến Tòa án làm việc, tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, cũng như tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm nhưng ông T vắng mặt không có lý do nên không có lời trình bày.

* Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án được thực hiện đúng theo quy định pháp luật.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận đơn xin ly hôn của bà Phan Thị Thu Th; Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Thiên A, sinh ngày 16/10/2008 cho bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời không buộc ông T phải cấp dưỡng cho con chung; Về tài sản chung và nợ chung: Vì chưa lấy được lời khai của ông T nên không có căn cứ xác định lời khai của bà Th là đúng, do vậy đề nghị tách phần tài sản chung và nợ chung của bà Th và ông T để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu; Về án phí: Bà Th phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Hoàng Công T hiện cư trú tại địa bàn TP. Biên Hòa nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân TP Biên Hòa theo điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Mặc dù đã được Tòa án nhiều lần triệu tập hợp lệ ông Hoàng Công T đến Tòa án để tham gia các buổi làm việc, phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như xét xử nhưng ông T đều vắng mặt không lý do còn bà Phan Thị Thu Th có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Th và ông T theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Bà Th và ông T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2008, có đăng ký kết hôn tại UBND xã I, huyện Đ, tỉnh G trên cơ sở cả hai tự nguyện nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình giải quyết và tại phiên tòa, Tòa án, Hội đồng xét xử đã tiến hành hòa giải, hàn gắn đoàn tụ nhưng bà Th xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được và cương quyết xin ly hôn với ông T để trả tự do cho nhau. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Th và ông T đã xảy ra trong khoảng thời gian dài, hiện cả hai đã không còn chung sống với nhau (khoảng 01 năm nay theo biên bản xác minh tại địa phương ngày 27/9/2018 – bút lục số 22). Bản thân ông T cũng không có ý hòa giải, hàn gắn cuộc sống vợ chồng điều này thể hiện qua việc ông T đã không đến tòa trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Như vậy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Th và ông T là có thật và đã thật sự trầm trọng, có tạo điều kiện về thời gian cho cả hai hòa giải cũng không đạt kết quả.

Do vậy, căn cứ theo qui định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Th, giải quyết cho bà Th được ly hôn ông T.

[4] Về con chung: Bà Th và ông T có 01 con chung tên là Hoàng Thị Thiên A, sinh ngày 16/10/2008. Ly hôn bà Th xin được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu A đến tuổi trưởng thành và có khẳ năng lao động, tạm thời bà không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung. Xét thấy kể từ khi bà Th và ông T sống ly thân với nhau cho đến nay cháu A do bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng (theo biên bản xác minh tại địa phương ngày 27/9/2018 – bút lục số 22), hiện bà Th có công việc, thu nhập ổn định, Cháu Hoàng Thị Thiên A là con gái, bản thân cháu có nguyện vọng được ở với mẹ (bút lúc số 24) nên căn cứ theo qui định tại các Điều 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình, ý kiến đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, giao Hoàng Thị Thiên A cho bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở. Vì quyền lợi của con khi cần thiết các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Vì chưa lấy được lời khai của ông T nên không có căn cứ xác định lời khai của bà Th là đúng. Do vậy, căn cứ theo qui định của pháp luật và ý kiến đề nghị của Viện kiểm sát, tách phần tài sản chung và nợ chung giữa bà Th, ông T để giải quyết bằng vụ án dân sự khác nếu sau này có yêu cầu.

[6] Về án phí HNGĐ sơ thẩm: Bà Th phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điều 235, Điều 238 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.

Áp dụng các Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Phan Thị Thu Th.

Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Thu Th được ly hôn với ông Hoàng Công T.

Về con chung: Giao cháu Hoàng Thị Thiên A cho bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng con chung.

Vì không trực tiếp nuôi con nên ông T được quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của con khi cần thiết, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu cấp dưỡng nuôi con

Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết.

Về án phí: Bà Th phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp tại biên lai số 009114 ngày 29/8/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự TP. Biên Hòa.

Bà Th, ông T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo qui định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 520/2018/HNGĐ-ST ngày 28/12/2018 về xin ly hôn

Số hiệu:520/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;