Bản án 51/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÒA VANG, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 21/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 21 tháng 9 năm 2020 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hòa Vang, TP Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 50/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 51/2020/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 9 năm 2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Đức K (tên gọi khác: L), sinh ngày 05/8/1992 tại TP. Đà Nẵng.

Trú tại: Thôn Lệ Sơn B, xã Hòa T, huyện Hòa V, TP. Đà Nẵng.

Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 11/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Đức B và bà Trần Thị L (cả hai đều còn sống); gia đình có 02 người con, bị cáo là con lớn trong gia đình; vợ là bà Nguyễn Trúc L và một con sinh năm 2017.

Tiền án, tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2011 bị UBND thành phố Đà Nẵng đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 10952/QĐ-UBND ngày 21/12/2011.

Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/6/2020; có mặt tại phiên tòa.

Người làm chứng: Bà Nguyễn Trúc L, sinh năm 1995 Trú tại: Thôn Lệ Sơn B, xã Hòa T, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 05 giờ 30 phút ngày 27/6/2020, trong đợt ra quân kiểm tra xử lý người nghiện, sử dụng trái phép chất ma túy theo Công văn số 734/CATP-PV01 ngày 16/6/2020 của Công an TP. Đà Nẵng, Đội Cảnh sát điều tra về tội phạm ma túy Công an huyện Hòa Vang phối hợp cùng Công an xã Hòa T, huyện Hòa Vang đến tại nhà Nguyễn Đức K ở thôn Lệ Sơn B, xã Hòa T, huyện Hòa Vang, TP.Đà Nẵng để mời K về trụ sở T hành test ma túy thì phát hiện 01 gói ni lông bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng trong hộp giấy màu trắng trên ghế sofa trong nhà của K, theo K khai nhận, chất tinh thể màu trắng này là ma túy, dạng đá nên đã lập biên bản bắt người phạm tội qủa tang.

Quá trình điều tra xác định Nguyễn Đức K là người nghiện ma túy, để có ma túy sử dụng nên vào ngày 17/6/2020 K đến đường Trần Nhân Tông, đoạn thuộc địa phận phường Mân Thái, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng mua 01 gói ma túy của người không xác định được nhân dạng và lai lịch cụ thể với giá 1.500.000 đồng về sử dụng. Về đến nhà, K lấy một ít ma túy sử dụng, số ma túy còn lại K bỏ trong gói ni lông rồi cất giấu trong hộp giấy màu trắng nhằm mục đích để lần sau sử dụng tiếp thì bị phát hiện bắt quả tang.

Vật chứng thu giữ:

- 01 gói ni lông bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng;

- 01 hộp giấy màu trắng;

- 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy;

Tại Bản kết luận giám định số 210 ngày 02/7/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an TP.Đà Nẵng kết luận, thì chất tinh thể màu trắng trong 01 gói ni lông gửi đi giám định là ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng mẫu tinh thể là 0,308 gam.

Với nội dung trên, tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKSNDHV ngày 28/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng đã truy tố bị cáo Nguyễn Đức K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng thực hành quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm đã truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức K mức án từ 18 (mười tám) tháng đến 24 (hai mươi bốn) tháng tù.

Đối với đối tượng đã bán ma túy cho K tại khu vực đường Trần Nhân Tông, đoạn thuộc địa phận phường Mân Thái, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng hiện chưa xác định được lai lịch và nhân dạng cụ thể, khi nào xác định được sẽ xử lý sau là phù hợp nên không đề cập đến.

Về xử lý vật chứng:

Đối với 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy và 0,190 gam ma túy còn lại sau khi giám định, vỏ bao, hộp giấy màu trắng, đây là tang vật của vụ án nên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu, tiêu hủy.

Bị cáo nói lời sau cùng: Bị cáo K thừa nhận hành vi phạm tội của mình và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố xét xử: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hòa Vang, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan T hành tố tụng, người T hành tố tụng đã thực hiện đều đảm bảo theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Đức K khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận của bị cáo phù hợp với Biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng và các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở xác định:

Vào lúc 05 giờ 30 phút ngày 27/6/2020, tại nơi ở của Nguyễn Đức K, thôn Lệ Sơn B, xã Hòa T, huyện Hòa Vang, TP.Đà Nẵng, lực lượng Công an huyện Hòa Vang đã kiểm tra và phát hiện bắt quả tang K đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ khi bắt quả tang là 01 gói ma túy loại methaphetamine, có khối lượng 0,308 gam.

Hành vi trên của bị cáo K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang truy tố về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự như Cáo trạng số 55/CT-VKSNDHV ngày 28/8/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang, TP. Đà Nẵng là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[2.2] Xét tính chất và hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Đức K thì thấy:

Bị cáo K là những người có sức khỏe, có đầy đủ năng lực hành vi và biết rõ việc sử dụng, tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng với bản tính thích đua đòi ăn chơi, không lo tu dưỡng rèn luyện và lao động để nuôi sống bản thân, gia đình, muốn thỏa mãn nhu cầu cá nhân nên đã sa ngã vào con đường phạm tội.

Hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền trong việc quản lý các chất ma túy của Nhà nước, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến sức khỏe và sự phát triển giống nòi của dân tộc, tác động tiêu cực đến một bộ phận thanh thiếu niên. Do tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, gây ra các tệ nạn xã hội và là nguyên nhân gây ra nhiều tội phạm khác.

Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc, đúng với tính chất hành vi phạm tội, cần cách L bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng ngừa chung.

[2.3] Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ của bị cáo Nguyễn Đức K thì thấy:

Bị cáo K là người chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội; nhưng có nhân thân xấu, năm 2011 bị UBND thành phố Đà Nẵng áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục với thời hạn 24 tháng theo Quyết định số 10952/QĐ-UBND ngày 21/12/2011. Hành vi phạm tội lần này của bị cáo thuộc tình tiết định khung hình phạt quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự nên không có tình tiết tăng nặng.

Trong quá trình điều tra, truy tố, cũng như tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, hiện bị cáo có con nhỏ sinh năm 2017 và ông nội là người có công với cách mạng được Nhà nước tăng thưởng huân chương K chiến hạng ba. Đây là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, Hội đồng xét xử áp dụng để giảm nhẹ cho bị cáo khi lượng hình.

[2.4] Hội đồng xét xử xét thấy, ngoài hình phạt chính, cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền để sung công quỹ Nhà nước đối với bị cáo, qua đó nhằm cải tạo giáo dục cũng như để răn đe phòng ngừa chung.

[3] Đối với đối tượng đã bán ma túy cho bị cáo tại khu vực đường Trần Nhân Tông, đoạn thuộc địa phận phường Mân Thái, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng hiện chưa xác định được lai lịch và nhân dạng cụ thể, khi nào xác định được sẽ xử lý sau là phù hợp nên Hội đồng xét xứ không đề cập đến.

[4] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy và 0,190 gam ma túy còn lại sau khi giám định, vỏ bao, hộp giấy màu trắng là những tang vật liên quan đến việc phạm tội nên Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy.

[5] Hội đồng xét xử xét lời đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hòa Vang tại phiên tòa về căn cứ các điều luật áp dụng, cũng như đề nghị mức hình phạt đối với bị cáo; về xử lý vật chứng là có cơ sở nên sẽ xem xét khi lượng hình.

[5] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu 200.000 đồng theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Đức K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Đức K 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 27/6/2020.

[2] Về hình phạt bổ sung: Căn cứ khoản 5 Điều 249, khoản 2 Điều 35 của Bộ luật Hình sự.

Xử phạt tiền bị cáo Nguyễn Đức K 10.000.000đ (mừơi triệu đồng), để sung công quỹ Nhà nước.

[3] Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Tuyên tịch thu tiêu hủy: 01 bộ dụng cụ dùng để sử dụng ma túy và 0,190 gam ma túy còn lại sau khi giám định, vỏ bao, hộp giấy màu trắng.

Tất cả vật chứng trên hiện do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hòa Vang quản lý theo Biên bản giao, nhận vật chứng ngày 07/9/2020.

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án, buộc bị cáo Nguyễn Đức K phải chịu 200.000đ (hai trăm ngàn đồng).

[5] Án xử công khai sơ thẩm, báo cho bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, ngày 21/9/2020.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2020/HS-ST ngày 21/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hoà Vang - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 21/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;