TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ ĐỒNG XOÀI, TỈNH BÌNH PHƯỚC
BẢN ÁN 51/2020/HSST NGÀY 13/05/2020 VỀ TỘI TRỐN KHỎI NƠI GIAM
Ngày 13/5/2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 26/2020/HSST ngày 20/02/2020 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 62/2020/HSST-QÑ, ngày 29/4/2020 đối với các bị cáo:
1. NGUYỄN HOÀNG N; Tên gọi khác: N P; Giới tính: Nam; Sinh năm:
1991, tại: Bình Phước; HKTT: tổ 3, khu phố 3, phường T Đ, thành phố Đ X, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông Nguyễn Hồng P, sinh năm 1966 và bà Trần Thị N, sinh năm 1963; Tiền sự: Không; Tiền án: 04 - Năm 2009 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là Tòa án nhân dân thành phố) Đồng Xoài xử phạt 13 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chưa chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm;
- Năm 2011 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là Tòa án nhân dân thành phố) Đồng Xoài xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chưa chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm;
- Năm 2012 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là Tòa án nhân dân thành phố) Đồng Xoài xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.
- Năm 2015 bị Tòa án nhân dân thị xã (nay là Tòa án nhân dân thành phố) Đồng Xoài xử phạt 42 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Chấp hành án tại trại giam Tống Lê Chân đến ngày 10/9/2018 chấp hành xong.
Ngày 12/5/2019 bị tạm giữ về hành vi: “Cướp tài sản” tại Nhà tạm giữ công an thành phố Đồng Xoài.
Ngày 05/6/2019 bị cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Đồng Xoài ra quyết định khởi tố bị can về hành vi: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” Tạm giam từ ngày 28/11/2019 cho đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
2. THẠCH MINH N; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1998; tại Cà Mau; HKTT: ấp 2, xã T H, thành phố Đ X, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Khơ Me; Tôn giáo: không; Con ông Thạch N – đã chết - và bà Văn Thị H, sinh năm 1963; Tiền sự: không;
Tiền án: Năm 2019 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 03 năm tù về tội “Lưu hành tiền giả”, bị cáo chưa chấp hành xong hình phạt tù.
Ngày 15/10/2019 bị khởi tố bị can về hành vi: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”. Xét xử vào ngày 21/4/2020, bản án chưa có hiệu lực pháp luật.
Tạm giam từ ngày 09/11/2019 cho đến nay, bị cáo có mặt tại phiên tòa.
3. LƯU XUÂN D; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm 1989; tại Bình Phước; HKTT:Thôn P L, xã P T, huyện P R, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 0/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Con ông Lưu Xuân H, sinh năm 1954 và bà Khương Văn T, sinh năm 1957; Vợ: Phạm Nhật Thúy A, sinh năm 1995, có hai con sinh năm 2012 và 2014; Tiền sự: không; Tiền án:
- Năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Chấp hành án tại trại giam Phú Hòa, tỉnh Bình Dương đến ngày 25/11/2018 chấp hành xong;
- Ngày 06/3/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù vào ngày 19/4/2020;
Tạm giam từ ngày 19/4/2019 đến nay; Bị cáo có mặt tại phiên tòa.
Người làm chứng: Nguyễn Văn H, sinh năm 1992; Trú tại: ấp V L, xã V H, huyện C T, tỉnh An Giang (vắng)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Hoàng N bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài khởi tố bị can và tạm giam từ ngày 12/5/2019 về tội “Cướp tài sản”; Thạch Minh N bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài khởi tố và tạm giam từ ngày 15/10/2019 về tội “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi”; Nguyễn Văn H bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài khởi tố và tạm giam từ ngày 17/8/2019 về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”; Lưu Xuân D bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Đồng Xoài khởi tố và tạm giam từ ngày 20/10/2019 vể tội “Trộm cắp tài sản”. N, N, D và H bị tạm giam tại buồng giam số 5D Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Xoài.
Trong thời gian các bị cáo bị giam chung tại buồng giam 5D thì vào ngày 12/8/2019 N được anh Võ Ngọc T- điều tra viên thuộc Cơ quan Cảnh sát điều tra công an huyện Đồng Phú trích xuất ra làm việc, trên đường đưa trở lại buồng giam N lợi dụng sơ hở của cán bộ dẫn giải đã nhặt được 02 đoạn kim loại (một đoạn dài khoảng 50 cm và 01 đoạn dài khoảng 30cm) giấu vào lưng quần để đưa vào phòng giam và cất giấu vào khe hở phía dưới chỗ để chân của bồn cầu trong phòng giam. Sáng ngày 29/10/2019 N rủ N, D và H khoét tường phòng giam để trốn thì tất cả đồng ý. Lúc này N lấy 02 thanh kim loại ra gấp đôi lại (01 đoạn dài 24,5cm, 01 đoạn dài 16,7 cm), kẹp thêm cọng chiếu vào rồi dùng sợi vải (được rút từ mảnh vải áo thun có sẵn trong phòng) cuốn tròn tạo thành tay cầm rồi giấu lên cửa sổ thông gió của phòng giam. Đến trưa cùng ngày, sau khi ăn cơm xong thì N và D thay phiên nhau đứng trên bể nước cầm đoạn kim loại khoét tường, còn N và H đứng ở phía trước để canh cán bộ đi kiểm tra. Thời gian đầu N và D chỉ đục khoan các lỗ nhỏ và cà rãnh vữa hồ các viên gạch. Để che giấu các lỗ, rãnh, N lấy kem đánh răng PS trộn với cơm thừa và bột vữa hồ tạo thành chất dẻo trét lấp lại nhằm trách sự phát hiện của cán bộ quản giáo đi kiểm tra, lục soát. Các thanh kim loại sau khi khoét đục tường được N giấu ở trên lỗ thông gió hoặc giấu ở khe dưới bồn cầu. Hàng ngày các đối tượng trên lợi dụng sơ hở những khoảng thời gian mà những người cùng giam, giữ chung tại Nhà tạm giữ nói chuyện ồn ào (buổi sáng từ khoảng 07 giờ- 09 giờ; buổi chiều từ khoảng 13 giờ 30 phút- 15 giờ 30 phút; buổi tối từ khoảng 18 giờ- 20 giờ) để đục tường nhằm che giấu tiếng động. Khi đào được hết lớp xi măng bên ngoài đến lớp xi măng bên trong thì H thấy việc đục tường khó khăn, đồng thời sợ ảnh hưởng đến gia đình nên H nói không tham gia vào việc bỏ trốn nữa.
Đến khoảng 22 giờ ngày 02/11/2019 thì N và D đục được 01 lỗ có kích thước khoảng 20 x 30cm gần thông ra ngoài thì dừng lại không đục khoét nữa và cùng nằm nghỉ. Đến khoảng 01 giờ ngày 03/11/2019, N dậy tiếp tục đục, khoét tường và thông được lổ ra bên ngoài. Lúc này, H nhờ N, D và N dùng vải mùng bịt miệng và trói chân, tay H lại nhằm mục đích cho H không liên quan đến việc trốn trại. Sau đó N chui đầu ra ngoài trước, N ở bên trong đẩy N ra bên ngoài, khi N ra được bên ngoài N lấy 02 cái mềm đưa ra ngoài cho N rồi đến lượt D chui ra nhưng do D to hơn nên không chui vừa lỗ, thấy vậy N cũng chui ra nhưng không vừa. Lúc này, N ở ngoài lấy 01 cục đá xanh đưa vào buồng giam cho N. N dùng cục đá trên đục lỗ cho rộng hơn rồi chui đầu ra trước, còn 02 chân N kêu D đẩy ra ngoài buồng giam. Sau khi N trốn ra được thì D cũng nhiều lần cố gắng chui ra để trốn nhưng do người D to nên không chui ra được. Đến khoảng 03 giờ 40 phút ngày 03/11/2019, D cởi trói cho H rồi đập cửa để gọi cán bộ quản giáo đến báo về việc N và N bỏ trốn (các bút lục 105- 109; 124-132; 144- 166).
Bị cáo N đã tái phạm chưa xóa án tích nhưng lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo N đã bị kết án về tội “Lưu hành tiền giả” chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội. Bị cáo D đã bị kết án về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích lại tiếp tục phạm tội.
Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải.
Tại bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 17/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài tỉnh Bình Phước đã truy tố các bị cáo về tội: “Trốn khỏi nơi giam” theo khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước giữ nguyên bản cáo trạng số 33/CT-VKS ngày 17/02/2020 và đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo N từ 18 đến 24 tháng tù; Bị cáo N từ 15 đến 18 tháng tù; bị cáo D từ 15 đến 18 tháng tù. Căn cứ vào các tài liệu và chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Viện kiểm sát, lời trình bày của các bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.
NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, Điều tra viên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo không có ý kiến và khiếu nại gì. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng 33/CT – VKS ngày 17/02/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài, tỉnh Bình Phước đã truy tố. Xét lời khai của các bị cáo phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án và đã được thẩm tra công khai tại phiên tòa, cụ thể: Các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Thạch Minh N và Lưu Xuân D bị tam giam tại phòng giam 5D, Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Xoài. Từ ngày 29/10/2019 đến ngày 03/11/2019 Nguyễn Hoàng N cùng với Thạch Minh N và Lưu Xuân D lợi dụng những khoảng thời gian mà những người cùng giam, giữ chung tại Nhà tạm giữ sinh hoạt, nói chuyện ồn ào để thực hiện hành vi sử dụng 02 đoạn kim loại đục khoét tường của phòng giam 5D nhằm mục đích bỏ trốn khỏi nơi giam, giữ.
Hành vi mà các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ thi hành tạm giữ, tạm giam trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự, làm mất trật tự trị an tại địa phương. Các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp, bản thân các bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Các bị cáo nhận thực được hành vi trốn khỏi nơi giam là vi phạm pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội và phải chịu trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, đây là vụ án đồng phạm nên cần phân tích vai trò của từng bị cáo để lượng hình.
[2.1] Đối với bị cáo Nguyễn Hoàng N: Bản thân bị cáo vào năm 2009 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 13 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Đến năm 2011 lại bị Tòa án nhân thành phố Đồng Xoài xử phạt 20 tháng tù cũng về tội “Trộm cắp tài sản”, cả hai bản án bị cáo đều chưa chấp hành xong phần án phí hình sự sơ thẩm; Năm 2012 tiếp tục bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; Năm 2015 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 42 tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”, bị cáo chấp hành xong hình phạt tù ngày 10/9/2018 đến tháng 5 năm 2019 bị cáo lại bị áp dụng biện pháp ngăn chặn là giữ, tạm giam về hành vi “ Cướp tài sản”. Trong thời gian đang bị tạm giam, lợi dụng vào sự sơ hở của cán bộ dẫn giải, bị cáo đã nhặt hai đoạn kim loại đưa về phòng giam rồi rủ những người cùng phòng giam là bị cáo N, bị cáo D thực hiện hành vi khoét tường, ngày 03/11/2019 bị cáo cùng N, D trốn khỏi nơi giam đến ngày 28/11/2019 bị bắt tạm giam lại. Xét, bị cáo có nhân thân rất xấu, tái phạm nhiều lần nhưng không ăn năn hối cải mà lại tiếp tục khởi xướng, chuẩn bị công cụ, trực tiếp thực hiện hành khoét tường để trốn khỏi nơi giam, do vậy, cần xử bị cáo mức án thật nghiêm khắc theo quy định tại khoản 1 điều 386 của Bộ luật hình sự để tiếp tục răn đe, giáo dục bị cáo.
[2.2] Đối với bị cáo Thạch Minh N: Vào năm 2019 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 03 năm tù về tội: “Lưu hành tiền giả”; Trong thời gian đang chấp hành hình phạt tù nhưng được giữ lại tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Đồng Xoài để điều tra, xét xử về hành vi: “Giao cấu với người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi” thì bị cáo cùng với bị cáo D nghe theo lời rủ rê của bị cáo N thực hiện hành vi khoét tường để trốn khỏi nơi giam từ ngày 03/11/2019 đến ngày 09/11/2019 thì bị cáo ra đầu thú và bị tạm giam lại cho đến nay. Do vậy, tại phiên tòa Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đề nghị xử bị cáo mức án từ 15 đến 18 tháng tù là có cơ sở nên được HĐXX chấp nhận.
[2.3] Đối với bị cáo Lưu Xuân D: Năm 2018 bị Tòa án nhân dân huyện Phú Riềng, tỉnh Bình Phước xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”; ngày 06/3/2020 bị Tòa án nhân dân thành phố Đồng Xoài xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” đến ngày 19/4/2020 bị cáo chấp hành xong hình phạt tù, lẽ ra bị cáo phải biết tu dưỡng, rèn luyện bản thân để trở thành công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội nhưng trong thời gian bị tạm giam bị cáo lại thực hiện hành vi trốn khỏi nơi giam, tuy nhiên do thân người to, lỗ khoét tường trốn nhỏ nên bị cáo không trốn ra ngoài được. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đồng Xoài đã truy tố và đề nghị xét xử bị cáo với mức hình phạt từ 15 đến 18 tháng tù theo quy định tại khoản 1 Điều 386 của Bộ luật hình sự là đúng người đúng tội và đúng pháp luật nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3] Các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Thạch Minh N và Lưu Xuân D được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là thành khẩn khai báo được quy định tại Điểm s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; Bị cáo N sau khi bỏ trốn đã ra đầu thú nên cần xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo khi lượng hình.
[4] Đối với Nguyễn Văn H mặc dù ban đầu đồng ý và có tham gia canh gác và khoét tường nhưng sau đó đã từ bỏ không tham gia nữa nên không đặt ra xử lý trong vụ án này.
[5] Về vật chứng của vụ án: Theo biên bản giao nhận số 0001776, quyển số 0036 ngày 26/02/2020 gồm có:
- Một cục đá không rõ hình dạng; một viên gạch thể và hai viên gạch ốp sát vào nhau; 08 viên gạch thẻ và các mảnh vỡ xi măng; 01 khăn vải màu xanh, đã cũ - Một đoạn nhiều sợi chiếu được quấn quanh bỏi nhiều sợi dây màn; Hai tấm vải có một mặt màu đen - Một mảnh vải màu hồng đã cũ và một mảnh vải màu màn màu hồng đã cũ (Tất cả vật chứng đã được niêm phong) Và dây kim loại dạng trụ, tròn được quấn cọng chiếu, vải và sợi dây màn có kích thước chiều dài 24,5cm.
Một đoạn kim loại dạng trụ tròn, có dấu hiệu cong vênh, trên thân có buộc dây dù màu xanh, một đầu có dính vôi, vữa, xi măng có đường kính 02mm Hai cái mền ngủ, trong đó có một cái màu đỏ, nâu, tím, trắng, vàng và một cái màu, xanh, đỏ, trắng, tím Một cái khăn mặt nền màu tím hoa văn hình con thú Do các vật chứng trên có liên quan đến vụ án nên cần tịch thu tiêu hủy.
[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.
Bởi các lẽ nêu trên;
QUYẾT ĐỊNH
1. Về tội danh: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Hoàng N, Thạch Minh N và Lưu Xuân D phạm tội: “Trốn khỏi nơi giam”.
2. Về hình phạt:
* Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điều 38, 50, 58; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h điều 52; Điều 53 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng N (tức N P) 24 (hai mươi bốn) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 28 tháng 11 năm 2019.
* Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điều 38, 50, 58; Điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điểm h điều 52; Điều 53 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Thạch Minh N 18 (mười tám) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 09/11/2019.
* Áp dụng Khoản 1 Điều 386; Điều 38, 50, 58; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điểm h điều 52; Điều 53 của Bộ luật hình sự Xử phạt bị cáo Lưu Xuân D 15 (mười lăm) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ 19/4/2020.
3. Về vật chứng của vụ án: Áp dụng điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.
Tuyên tịch thu tiêu hủy: - Một cục đá không rõ hình dạng; một viên gạch thể và hai viên gạch ốp sát vào nhau; 08 viên gạch thẻ và các mảnh vỡ xi măng; 01 khăn vải màu xanh, đã cũ
- Một đoạn nhiều sợi chiếu được quấn quanh bỏi nhiều sợi dây màn; Hai tấm vải có một mặt màu đen
- Một mảnh vải màu hồng đã cũ và một mảnh vải màu màn màu hồng đã cũ (Tất cả vật chứng đã được niêm phong; Theo biên bản giao nhận số 0001776, quyển số 0036 ngày 26/02/2020) Và dây kim loại dạng trụ, tròn được quấn cọng chiếu, vải và sợi dây màn có kích thước chiều dài 24,5cm.
Một đoạn kim loại dạng trụ tròn, có dấu hiệu cong vênh, trên thân có buộc dây dù màu xanh, một đầu có dính vôi, vữa, xi măng có đường kính 02mm Hai cái mền ngủ, trong đó có một cái màu đỏ, nâu, tím, trắng, vàng và một cái màu, xanh, đỏ, trắng, tím Một cái khăn mặt nền màu tím hoa văn hình con thú
[4] Về án phí: Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
[5]. Quyền kháng cáo: Các bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 51/2020/HSST ngày 13/05/2020 về tội trốn khỏi nơi giam
Số hiệu: | 51/2020/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/05/2020 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về