Bản án 51/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH HƯNG YÊN

BẢN ÁN 51/2020/HS-ST NGÀY 12/06/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 12/6/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 51/2020/HSST ngày 09/4/2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 56/2020/QĐXXST-HS ngày 29/5/2020, đối với bị cáo:

* Nguyễn Văn T, sinh năm 1996, tại: Hải Phòng; Hộ khẩu thường trú: Thôn Q, xã B, huyện A, Tp. H; chỗ ở: Thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh H; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 12/12; con ông Nguyễn Văn V và con bà Lê Thị Đ; vợ là Bùi Thị N và có 01 con sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 09/02/2018 bị Phòng cảnh sát hình sự Công an thành phố Hải Phòng ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Đã nộp phạt xong ngày 09/02/2018.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/12/2019 đến nay, hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Hưng Yên, (có mặt).

Người chứng kiến: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1986, trú tại: thôn T, xã H, thành phố C, tỉnh H và anh Dương Văn H, sinh năm 1995, trú tại: thôn H, xã L, huyện V, tỉnh H. (đều vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 15/12/2019 tại nhà nghỉ 89 thuộc địa phận thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, tổ công tác Phòng Cảnh sát hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên bắt quả tang Nguyễn Văn T, sinh năm 1996, hộ khẩu thường trú tại thôn Q, xã B, huyện A, thành phố H; chỗ ở tại thôn N, thị trấn N, huyện V, tỉnh H về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tiến hành kiểm tra hành chính T tự giao nộp 01 gói nilon màu trắng, bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng (T khai nhận gói nilon trên là ma túy T vừa mua để sử dụng) được niêm phong ký hiệu MT; Ngoài ra Cơ quan điều tra còn thu giữ của T 01 điện thoại di động Nokia màu đen.

Bản kết luận giám định số 15/PC09 ngày 18/12/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên kết luận: Chất dạng tinh thể màu trắng trong niêm phong ký hiệu MT thu của Nguyễn Văn T là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng 22,685 gam.

Tại cơ quan điều tra, T khai nhận, bản thân thường xuyên sử dụng ma túy, loại ma túy đá từ năm 2016 đến nay. Nguồn gốc số ma túy thu giữ là do T mua lúc 16 giờ ngày 15/12/2019 tại khu vực chợ Như Quỳnh của người đàn ông không rõ tên tuổi địa chỉ khoảng 40 tuổi, da ngăm đen, cao khoảng 1m70 với số tiền 10.000.000 đồng. Sau đó T đến nhà nghỉ 89 thuộc thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm thuê phòng để sử dụng ma túy nhưng chưa kịp thuê phòng thì bị Công an bắt quả tang.

Đối với người đàn ông bán ma túy đá cho T ở khu vực chợ Như Quỳnh, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên do T không biết chính xác tên tuổi địa chỉ cụ thể nên không đủ căn cứ xác minh xử lý.

* Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật; xử lý vật chứng:

- Đối với chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của T, quá trình điều tra xác định là của T sử dụng để liên lạc cá nhân, hiện được quản lý trong kho vật chứng Công an tỉnh Hưng Yên.

- Đối với số ma túy hoàn lại sau giám định được quản lý tại kho vật chứng Công an tỉnh Hưng Yên.

Quá trình điều tra T thành khẩn khai báo hành vi phạm tội của mình.

Cáo trạng số 52/CT-VKS-P1 ngày 09/4/2020, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng hình phạt thấp nhất.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên trình bày luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo. Sau khi phân tích, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ, đề nghị Hội đồng xét xử, tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T từ 08 năm đến 09 năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 15/12/2019. Về vật chứng và án phí đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng: Cơ quan Điều tra - Công an tỉnh Hưng Yên và Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi và quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng từ giai đoạn điều tra cho đến phiên tòa sơ thẩm đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo:

Tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội, lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa như: Biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang; Biên bản niêm phong vật chứng; Kết luận giám định số 15/PC09 ngày 18/12/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên và lời khai của những người chứng kiến chị Nguyễn Thị H và anh Dương Văn H. Do đó, đủ căn cứ kết luận: Khoảng 16 giờ 45 phút ngày 15/12/2019, tại nhà nghỉ 89 thuộc địa phận thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên Nguyễn Văn T đang tàng trữ trái phép 22,685 gam Methamphetamine để sử dụng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra - Công an tỉnh Hưng Yên bắt quả tang.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, hành vi của bị cáo nêu trên đã đủ yếu tố cấu thành tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo Điều 249 Bộ luật hình sự. Bị cáo tàng trữ trái phép 22,685 gam Methamphetamine mục đích để sử dụng, do đó bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng định khung là “Heroin, Cocaine, Methamphetamine...có khối lượng từ 05 gam đến dưới 30 gam” quy định tại điểm g khoản 2 điều 249 Bộ luật hình sự. Nên, cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hưng Yên truy tố bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý đặc biệt của Nhà nước đối với ma túy và các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an xã hội và sự bất bình trong dư luận nhân dân tại địa phương; là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm khác. Bản thân bị cáo là người nghiện ma túy, bị cáo biết rất rõ tác hại của ma túy cũng như hậu quả và hệ lụy hết sức nặng nề của việc sử dụng chất ma túy để lại đối với trí lực, thể lực của con người cũng như kinh tế của chính gia đình, bản thân người nghiện và của xã hội. Nhưng do có lối sống buông thả và để thỏa mãn cho ham muốn cá nhân, bị cáo đã bất chấp các quy định pháp luật; bản thân bị cáo đã bị xử lý hành chính về hành vi cùng loại nhưng không lấy đó làm bài học để rèn luyện, cải tạo trở thành người tốt mà tiếp tục phạm tội, chứng tỏ bị cáo là người khó cải tạo và coi thường pháp luật. Vì vậy, cần xét xử nghiêm, dành cho bị cáo một hình phạt thỏa đáng, tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[5] Về quyết định hình phạt: Căn cứ tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, cần tiếp tục cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian, với mức án như quan điểm đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa.

[6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo là người nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[7] Về biện pháp tư pháp:

- Toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong 01 niêm phong số 15/MT-PC09 có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, trên phong bì ghi “Hoàn mẫu vật gửi giám định, tên mẫu vật: Methamphetamine vụ Tàng trữ ma túy, đ/t: Nguyễn Văn T, sinh năm1996, HKTT: Thôn Q, xã B, huyện A, Tp. H, thu giữ hồi 16 giờ 45 ngày 15/12/2019 tại thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên” là vật cấm tàng trữ nên tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia mầu đen, bên trong có 01 sim viettel không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo.

[8] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu án phí theo Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt:

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng: Điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/12/2019.

2. Về biện pháp tư pháp: Áp dụng Điều 46; Điều 47; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số ma túy hoàn lại sau giám định đựng trong 01 niêm phong số 15/MT-PC09 có dấu đỏ của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Hưng Yên, trên phong bì ghi “Hoàn mẫu vật gửi giám định, tên mẫu vật: Methamphetamine vụ Tàng trữ ma túy, đ/t: Nguyễn Văn T; SN:1996, HKTT: Thôn Q, xã B, huyện A, Tp. H, thu giữ hồi 16 giờ 45 ngày 15/12/2019 tại thôn Hành Lạc, thị trấn Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên”.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn T 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia mầu đen, bên trong có 01 sim viettel.

(Theo quyết định chuyển vật chứng số 14/QĐ-VKS-P1 ngày 09 tháng 04 năm 2020 của Viện kiểm sát Nhân dân tỉnh Hưng Yên).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án/

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

209
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2020/HS-ST ngày 12/06/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hưng Yên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;