Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 51/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON 

Ngày 16 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 174/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 và quyết định hoãn phiên tòa số 40/2020/QĐST- HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Đỗ Thị H, sinh năm 1984; thường trú: Thôn T, xã M, huyện L, tỉnh Hà Nam; tạm trú: 1/332 tổ 5, khu phố L, phường G, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hữu H, sinh năm 1980; thường trú: Thôn T, xã M, huyện L, tỉnh Hà Nam; tạm trú: 1/332 tổ 5, khu phố L, phường G, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 13/02/2020, bản tự khai ngày 03/3/2020, biên bản lấy lời khai ngày 09/3/2020 và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Đỗ Thị H trình bày:

Bà Đỗ Thị H và ông Nguyễn Hữu H tự nguyện tìm hiểu, tiến đến hôn nhân có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Hà Nam theo giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số 01 ngày 06/4/2007. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông H thường xuyên cờ bạc, cá độ, mang tài sản trong nhà đi thế chấp, cầm cố, đi vay nặng lãi, không những không lo cho cuộc sống gia đình mà còn làm cho cuộc sống gia đình ngày càng khó khăn. Bà H đã nhiều lần cho cơ hội nhưng ông H không thay đổi. Nay bà Đỗ Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H.

Về con chung: Quá trình chung sống, vợ chồng 03 con chung tên Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/5/2008, Nguyễn Thị Hà L, sinh ngày 04/02/2012 và Nguyễn Hà M, sinh ngày 30/12/2017. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con. Tại đơn khởi kiện bà H yêu cầu ông H có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con, tuy nhiên quá trình tố tụng bà không yêu cầu ông H phải cấp dưỡng nuôi con do bà hiện đang kinh doanh buôn bán đồ điện nước, thu nhập khoảng 12.000.000 đồng/tháng nên bà xác định đủ khả năng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn ông Nguyễn Hữu H không có văn bản trình bày ý kiến và không tham gia tố tụng.

Đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán, thư ký được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”.

Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn ông Nguyễn Hữu H, có đăng ký tạm trú tại địa chỉ 1/332 tổ 5, khu phố L, phường G, thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương theo quy định tại Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điều 36; Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ pháp luật: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu được ly hôn, yêu cầu được nuôi con, nguyên đơn không yêu cầu giải quyết về tài sản chung; nợ chung. Như vậy quan hệ tranh chấp trong vụ án này là ly hôn, tranh chấp nuôi con.

[3] Về việc xét xử vắng mặt: Nguyên đơn- bà Đỗ Thị H có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn – ông Nguyễn Hữu H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự [4] Về nội dung vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị H và ông Nguyễn Hữu H có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Hà Nam ngày 06/4/2007 giấy chứng nhận kết hôn số 42, quyển số 01 nên quan hệ hôn nhân của bà H và ông H là hôn nhân hợp pháp.

Bà Đỗ Thị H khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H với lý do: Bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp, ông H thường xuyên cờ bạc, cá độ, mang tài sản trong nhà đi thế chấp, cầm cố, đi vay nặng lãi, không những không lo cho cuộc sống gia đình mà còn làm cho cuộc sống gia đình ngày càng khó khăn, bà H đã nhiều lần cho cơ hội nhưng ông H không thay đổi. Vợ chồng sống chung nhau nhưng mỗi người có cuộc sống riêng không ai quan tâm đến ai.

Quá trình tố tụng Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà H và ông H tại nơi cư trú của vợ chồng đều xác định tình trạng hôn nhân của bà H và ông H có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng thường xuyên gây gỗ, ông H không có trách nhiệm gia đình và không chăm lo cho con cái. Quá trình làm việc các con chung đều xác định tình trạng như trên. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sống có trách nhiệm, thương yêu, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Vợ chồng bà H và ông H vì bất đồng quan điểm sống nên cuộc sống có nhiều mâu thuẫn. Từ khi bà H nộp đơn khởi kiện đến nay tình trạng hôn nhân của bà H và ông H vẫn không cải thiện, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai nấy sống nên xác định tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà H và ông H không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân của bà H và ông H đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H về việc ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà H và ông H 03 con chung tên Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/5/2008, Nguyễn Thị Hà L, sinh ngày 04/02/2012 và Nguyễn Hà M, sinh ngày 30/12/2017, bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng các con. Ông H không có văn bản trình bày ý kiến. Quá trình tố tụng, Tòa án lấy lời khai các con đều xác định có nguyện vọng sống cùng với mẹ. Xét thấy, từ khi vợ chồng mâu thuẫn, bà H là người chăm sóc, nuôi dưỡng các con. Bà H làm nghề kinh doanh và có thu nhập nên nuôi con tốt, có trách nhiệm với con cái nên các con phát triển bình thường, khỏe mạnh, học hành đầy đủ. Do vậy, cần tiếp tục giao con cho bà H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là đảm bảo quyền lợi mọi mặt của các con, phù hợp với nguyện vọng của các con nên chấp nhận yêu cầu này của bà H. Bà H không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con nên ông H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung; nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp [6] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn chịu án phí theo quy định.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 36, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 266, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57 và Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án năm 2016.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ Thị H về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” với ông Nguyễn Hữu H.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Đỗ Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Hữu H.

- Về con chung: Giao con chung Nguyễn Thị Hà P, sinh ngày 03/5/2008, Nguyễn Thị Hà L, sinh ngày 04/02/2012 và Nguyễn Hà M, sinh ngày 30/12/2017 cho bà Đỗ Thị H trực tiếp chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cho đến khi các con chung đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng: Ông Nguyễn Hữu H không phải cấp dưỡng nuôi con - Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí sơ thẩm:

Bà Đỗ Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được khấu trừ toàn bộ số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0046233 ngày 27/02/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã (nay là thành phố) Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:51/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;