Bản án 51/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRƯỜNG - TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 51/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2019/TLST-HS, ngày 15 tháng 8 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Phạm Văn S, sinh ngày 05/3/1975 tại xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; nơi cư trú: Xóm 13, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Phạm Xuân S (đã chết) và con bà Lê Thị G; có vợ là Phạm Thị T, sinh năm 1981; có 02 con, con lớn sinh năm 2006, con nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo bị bắt quả tang, tạm giữ từ ngày 11/6/2019, đến ngày 17/6/2019 chuyển tạm giam đến nay; “có mặt”.

-Người chứng kiến:

1. Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1961, nơi cư trú: Xóm 12, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; “có mặt”.

2. Anh Phạm Văn C, sinh năm 1975, nơi cư trú: Xóm 12, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; „có mặt”.

3. Ông Phạm Đức C, sinh năm 1961, nơi cư trú: Xóm 13, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định; “vắng mặt”

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 6 giờ ngày 11/6/2019, Phạm Văn S đi bộ từ nhà ở xóm 13, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định đi ra đường liên xã nhờ xe của một người qua đường xuống khu vực dốc Hoành Nha, xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định tìm mua Heroine sử dụng cho bản thân. Đến nơi, S gặp một người đàn ông lạ mặt, không biết tên, tuổi, địa chỉ, qua dò hỏi biết người này có ma túy bán, Sản hỏi mua 400.000đ, người đàn ông đưa lại cho S 04 gói nhỏ ngoài gói bằng giấy báo bên trong chứa chất bột dạng cục màu trắng, S xác định là Heroine cất vào trong người rồi lại đi nhờ xe của người đi đường về nhà. Để tránh bị phát hiện, S cất 03 gói nhỏ trong 1 túi nilông màu đỏ treo lên mắc áo, trong buồng ngủ của mình để sử dụng dần, còn 01 gói cầm trong tay đi ra khỏi nhà tìm nơi sử dụng. Khoảng 9 giờ cùng ngày S đi bộ đến khu vực xóm 12, xã X, huyện X thì bị Tổ công tác Công an huyện X phát hiện bắt quả tang. Tổ công tác đã mời người chứng kiến, tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ niêm phong 01 gói nhỏ của S ký hiệu M.

Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của Phạm Văn S, thu giữ trong phòng ngủ của Sản 01 gói túi nilông màu đỏ, bên trong có 03 gói nhỏ đều có đặc điểm giống gói đã thu giữ khi bắt quả tang S bằng niêm phong, ký hiệu K và 01 túi nilông màu đen trong tủ quần áo bên trong có: 05 chiếc bơm kim tiêm, 08 lọ nước cất của S để chích Heroine.

Theo Kết luận giám định số 585/GĐKTHS ngày 12//6/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng ký hiệu M, K gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Heroine; khối lượng M: 0,070 gam; K: 0,199 gam; tổng: 0,269 gaam.

Cáo trạng số 43/CT-VKS, ngày 15/8/2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện X đã truy tố bị cáo Phạm Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự.

Quá trình điều tra bị cáo đã khai nhận hành vi cũng như không khiếu nại về kết luận giám định đã nêu trong Cáo trạng.

Ti phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện X luận tội, đánh giá về nhân thân, tình tiết tăng năng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quan điểm đã truy tố bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ vào: Điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về hình phạt chính: Xử phạt bị cáo Phạm Văn S từ 20 đến 22 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tự bào chữa, tranh luận gì. Trong lời nói sau cùng bị cáo tỏ thái độ ăn năn hối cải và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện X, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện X, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại giai đoạn điều tra, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người chứng kiến, kết hợp với kết luận giám định về số Heroine thu giữ cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; có đủ cơ sở xác định: Khoảng 9 giờ ngày 11/6/2019, tại xóm 13, xã X, huyện X, tỉnh Nam Định, Phạm Văn S có hành vi tàng trữ trái phép 04 gói Heroine tổng khối lượng 0,269 gam mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị phát hiện bắt quả tang. Vì vậy, hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự như Viện kiểm sát truy tố ra phiên tòa là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự quản lý của Nhà nước về các chất gây nghiện. Tính nguy hiểm của hành vi còn thể hiện ở chỗ: Tệ nạn ma tuý đang còn là một vấn đề nhức nhối của toàn xã hội, nó không chỉ huỷ hoại sức khoẻ của người nghiện mà còn khiến nhiều gia đình rơi vào cảnh khánh kiệt, bần cùng; là nguyên nhân dẫn đến phạm tội và gây mất trật tự, an toàn xã hội; bị cáo Phạm Văn S là người nghiện, nhận thức đầy đủ về tác hại, về tính nguy hiểm của hành vi phạm tội về ma túy, song bị cáo vẫn phạm tội.

[4] Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo có bố và mẹ đều được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[5] Từ những phân tích trên, Hội đồng xét xử xét cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là áp dụng hình phạt tù có thời hạn tương xứng với tính chất mức độ hành vi; có như vậy mới tác dụng giáo dục, cảo tạo bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và răn đe đấu tranh phòng ngừa chung.

[6] Về hình phạt bổ sung: Xét thấy, hoàn cảnh kinh tế gia đình bị cáo khó khăn, bản thân bị cáo nghiện ma tuý nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

[7] Về xử lý vật chứng, tài sản thu giữ: Số Heroine đã thu giữ là vật Nhà nước cấm lưu hành cũng như 05 bơm kim tiêm; 08 lọ thủy tinh không có giá trị sử dụng nên tịch thu cho tiêu hủy.

[8] Đối với người đàn ông đã bán Heroine cho S, do S không biết tên, tuổi, địa chỉ, ngoài ra không còn nguồn tài liệu, chứng cứ nào khác để chứng minh Cơ quan CSĐT Công an huyện X không có căn cứ nên không xem xét là phù hợp.

[9] Về án phí: Bị cáo bị kết tội nên phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[10] Quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Phạm Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn S 20 (hai mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ (11/6/2019).

2. Về xử lý vật chứng: Căn cứ vào điểm c, khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; các điểm a, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

Tch thu tiêu hủy số Heroine trong phong bì hoàn trả mẫu vật giám định số 586/GĐKTHS của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Nam Định; 05 bơm kim tiêm; 08 lọ thủy tinh.

(Chi tiết vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 58/CCTHA ngày 20/8/2019 giữa Công an huyện X và Chi cục Thi hành án dân sự huyện X).

3. Án phí: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 cùng Danh mục án phí, lệ phí Tòa án kèm theo của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Buộc bị cáo Phạm Văn S phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Bị cáo Phạm Văn S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hạn thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 51/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:51/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;